Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại

Theo Bộ GD&ĐT, có hơn 7,5 triệu học sinh ở các địa phương đang học trực tuyến, trong đó khoảng 1,5 triệu học sinh không có bất cứ thiết bị nào để học tập.

Bà Nguyễn Thị Lý, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội, cho biết, qua khảo sát, 100% học sinh đủ thiết bị học tập, nhưng có tới 60% em dùng điện thoại. Màn hình điện thoại bé, học sinh khó nhìn màn hình giáo viên chia sẻ, trình chiếu video học tập. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập.

Bà Đinh Thị Ngọc Dung, Hiệu trưởng Trường THCS Đồng Thái, huyện Ba Vì, Hà Nội, cho biết, trường có 835 học sinh đầu năm rà soát chỉ có khoảng 30 em có máy tính học trực tuyến, đến nay con số này tăng lên thành 80 em, số còn lại phải học bằng điện thoại.

“Có đến một nửa học sinh phải học điện thoại cũ của bố mẹ. Việc học trực tuyến bằng điện thoại cũ, màn hình mờ, nhanh hết pin sẽ ảnh hưởng tới mắt cũng như hạn chế các em ghi chép bài vở trên lớp. Biết nhiều hạn chế như vậy nhưng học sinh ở vùng nông thôn điều kiện gia đình khó khăn, không có giải pháp khác”, bà Dung nói.

Tại các địa phương, khảo sát từ đầu năm học cho thấy tỉ lệ học sinh thiếu thiết bị học tập còn nhiều. Ở Sơn La, chỉ có 30% học sinh có thiết bị học tập; Nghệ An thiếu 69.000 thiết bị…

Ảnh hưởng mắt, chất lượng học tập

Tại TPHCM, đến thời điểm này, dù tỉ lệ học sinh thiếu thiết bị học tập đã giảm từ 75.000 xuống còn hơn 30.000, nhưng chưa có báo cáo có bao nhiêu em được sử dụng máy tính để học tập.

Ông Thái Văn Thành, Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An, cho biết, đầu năm học có 69.000 học sinh thiếu thiết bị học tập; đến nay, địa phương kêu gọi hỗ trợ, quyên góp được hơn 15 tỷ đồng mua thiết bị; đa số học sinh đã có phương tiện để học tập. Tuy nhiên, trong số đó, đa số học sinh sử dụng điện thoại để học tập vì gia đình khó khăn, không có tiền mua máy tính.

“Nếu học trực tuyến bằng điện thoại kéo dài sẽ gây ảnh hưởng tới thị lực và khó khăn trong tiếp nhận thông tin, ảnh hưởng chất lượng học tập. Tuy nhiên, ở địa phương, thời gian học trực tuyến của học sinh không kéo dài. Đến nay, chỉ còn học sinh lớp 1-11 ở TP Vinh học trực tuyến, các huyện khác đã học trực tiếp”, ông Thành nói.

TS Lê Viết Khuyến, Phó chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, nói rằng, thực tế ở gia đình có 2 cháu học trực tuyến phải vừa trang bị mỗi cháu 1 máy tính để học chính vừa phải có thêm 1 điện thoại thông minh để chụp ảnh, gửi bài cho giáo viên. Mỗi ngày, cô giáo giao bài tập, yêu cầu học sinh chụp lại, hoặc làm bài tập xong chụp gửi đi. Theo dõi trẻ học, ông thấy, nếu chỉ học bằng điện thoại màn hình nhỏ, học sinh sẽ gặp nhiều khó khăn, khó thao tác.

Theo ông Khuyến, khi học sinh không nắm được bài, chất lượng yếu kém, dẫn tới nguy cơ bỏ học là điều cần tính tới. “Có thể nói, với tỉ lệ học sinh dùng điện thoại học là chủ yếu như hiện nay chỉ có thể là cách học đối phó, tạm thời trong một thời gian ngắn.Nếu kéo dài nhiều tháng, học sinh sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến mắt, tâm sinh lý. Tôi từng có ý kiến phản đối việc cho học sinh tiểu học, THCS học trực tuyến. Phương thức này áp dụng cho học sinh THPT, CĐ, ĐH sẽ hợp lý hơn”, ông nói.

Tại kỳ họp Quốc hội mới đây, đại biểu Nguyễn Văn Cảnh (Bình Định) đề nghị, không nên xem điện thoại di động là thiết bị học trực tuyến. Cần có chính sách tốt hơn để các em có thiết bị học tập đảm bảo an toàn cho mắt.

Cụ thể, phỏng vấn gần 4.000 bà mẹ ở New York về mức độ sử dụng thiết bị điện tử khi trẻ 1 - 3 tuổi cho thấy, việc trẻ em sử dụng các thiết bị này hàng ngày đã tăng lên gấp 3 lần, từ mức trung bình 53 phút ở lên hơn 150 phút.

Còn tại Canada, hơn 79% trẻ em 2 tuổi và gần 95% trẻ em 3 tuổi đã vượt quá hướng dẫn của WHO về việc không sử dụng thiết bị điện tử quá một giờ mỗi ngày.

“Kết quả này đã cho thấy thói quen sử dụng thiết bị điện tử của trẻ bắt đầu từ rất sớm”, tác giả cấp cao Edwina Yeung, điều tra viên tại Viện Phát triển Con người và Sức khỏe Trẻ em Quốc gia Eunice Kennedy Shriver, cho biết.

Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại

Trẻ em dành nhiều thời gian trước màn hình máy tính bảng, điện thoại và TV có ít chất trắng trong não hơn. Trong ảnh là hình ảnh não bộ của một đứa trẻ tiếp xúc quá nhiều với các thiết bị này. Những khu vực bị ảnh hưởng có màu xanh lam.

Nghiên cứu cũng cho thấy hầu hết những đứa trẻ nằm trong nhóm sử dụng thiết bị điện tử quá mức đều là con đầu lòng, một cặp song sinh hoặc cha mẹ quá bận để chơi cùng con.

Những đứa trẻ này còn có thể học từ ba mẹ chúng - những người cũng đang lạm dụng điện thoại, đặc biệt là những bà mẹ chăm sóc con tại nhà. Chính những mối liên hệ đó đã dẫn đến việc trẻ em sử dụng thiết bị điện tử ngày càng tăng và cha mẹ cũng không thể can thiệp được.

Trước thực trạng này, Học viện Nhi khoa Mỹ đã công bố các hướng dẫn về thời gian sử dụng thiết bị điện tử của từng độ tuổi.

Các bác sĩ khuyến cáo cha mẹ không nên khuyến khích trẻ dưới 2 tuổi sử dụng thiết bị điện tử. Trẻ dưới 5 tuổi cần được giới hạn tổng thời gian sử dụng màn hình giải trí, phim ảnh, trò chơi điện tử, Facebook, YouTube,… xuống còn một giờ mỗi ngày. Tốt nhất là trẻ nên xem với cha mẹ hoặc người chăm sóc và có sự tương tác, bàn luận về những nội dung mà chúng đang xem.

Cha mẹ có thể đưa ra một khoảng thời gian cố định cho việc sử dụng những thiết bị điện tử của con. Ngoài khoảng thời gian đó, cha mẹ có thể xây dựng cho con thói quen khám phá thế giới bên ngoài nhiều hơn, hoạt động thể chất càng nhiều càng tốt.

Đối với những trẻ dưới 1 tuổi, WHO khuyến khích cha mẹ nên đọc, kể chuyện cho con nghe và tương tác cùng con nhiều hơn. Trẻ em ở độ tuổi này cũng nên ngủ đủ giấc từ 10 - 14 giờ mỗi đêm.

Áp dụng cách thức này, bà mẹ Jennifer Alsip ở Robinson, Texas (Mỹ) đã cắt mạng điện thoại khi con hết thời gian sử dụng. Trong khi đó, Melissa Barrios, một bà mẹ hai con ở Ventura, California (Mỹ) đã trả 5 USD/ tháng nếu cô con gái 13 tuổi không dùng ipad, điện thoại từ 9 giờ tối đến 7 giờ sáng.

Các chuyên gia cho rằng, những số liệu trên đây là một lời cảnh tỉnh lớn cho các bậc phụ huynh và ngành giáo dục. “Điều quan trọng là chúng ta phải tiếp cận những thay đổi này một cách có trách nhiệm vì lợi ích lâu dài của con cái chúng ta”.

Thời Vũ (Theo CNN)

Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại

Phụ huynh ngày càng bị ám ảnh bởi tác động xấu của công nghệ lên trẻ em như khiến trẻ mất khả năng giao tiếp xã hội, làm giảm sự tập trung trí não. Vì thế, nhiều cha mẹ đã dùng các biện pháp cực đoan để ngăn cấm trẻ.

Trong thời đại công nghệ số hiện nay, việc sử dụng điện thoại thông minh (Smartphone) ở học sinh tiểu học rất đáng được quan tâm. Nghiên cứu này nhằm mô tả thực trạng sử dụng Smartphone và các yếu tố liên quan ở học sinh của 4 trường tiểu học tại thành phố Huế, Thừa Thiên Huế năm 2018. Bằng phương pháp mô tả cắt ngang kết hợp định lượng trên 640 cặp phụ huynh-học sinh và định tính trên 2 nhóm phụ huynh thuộc 4 trường tiểu học trên thành phố Huế. Sử dụng bộ công cụ được thiết kế sẵn và thang đo SAS-SV để đánh giá mức độ nghiện Smartphone ở học sinh. Kết quả cho thấy có 83,1% học sinhtiểu học sử dụng Smartphone, trong đó 28,2% có biểu hiện nghiện, 47,6% có dấu hiệu nguy cơ nghiện Smartphone. Tỷ lệ nghiện Smartphone ở nam cao hơn so với nữ (38,1% và 17,3%). Các yếu tố liên quan đến lạm dụng Smartphone bao gồm giới tính, thời gian sử dụng, mục đích sử dụng, điều kiện kinh tế gia đình và trình độ học vấn của phụ huynh. Từ kết quả nghiên cứu có thể kết luận rằng tỷ lệ và nguy cơ nghiện Smartphone của học sinh tiểu học nằm ở mức cao. Theo đó các bậc phụ huynh cần có thái độ quan tâm hơn cũng như phương pháp hướng dẫn sử dụng Smartphone thích hợp nhằm tránh tình trạng lạm dụng Smartphone ở trẻ.

To read the full-text of this research,
you can request a copy directly from the authors.

ResearchGate has not been able to resolve any citations for this publication.

ResearchGate has not been able to resolve any references for this publication.

May 2021 · HUE UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT

  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Hung Hoang
  • Trần Thị Ánh Nguyệt
  • Nguyễn Thị Diệu Hiền
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Dung Tien Nguyen

Để thúc đẩy người dân áp dụng VietGAP trong chăn nuôi bò thịt, chúng ta cần hiểu được quan điểm của họ về VietGAP. Tuy nhiên, hiện có rất ít nghiên cứu đánh giá quan điểm của người dân về VietGAP. Nghiên cứu này nhằm đánh giá quan điểm của người dân về VietGAP và xác định yếu tố tác động đến chăn nuôi bò thịt áp dụng VietGAP tại huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Thông tin về việc áp dụng VietGAP ... [Show full abstract] trong chăn nuôi bò thịt được thu thập và phân tích. Nghiên cứu khảo sát 305 hộ chăn nuôi bò thịt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết người dân (51,1–99,7 %) đều biết về các yêu cầu của VietGAP và có quan điểm tích cực về các thay đổi theo yêu cầu của VietGAP. Hoạt động chăn nuôi bò thịt áp dụng VietGAP đang thực hiện khá tốt. Nghiên cứu phát hiện ra rằng nam giới trẻ tuổi (β = -0,323, p = 0,020) và có trình độ giáo dục cao (β = 0,479, p = 0,010) sẽ có khuynh hướng áp dụng VietGAP trong chăn nuôi bò thịt. Hộ có thu nhập cao (β = 0,112, p = 0,017), thường xuyên tiếp xúc với cán bộ khuyến nông (β = 1,167, p = 0,016) và sở hữu công nghệ thông tin và truyền thông (β = 2,871, p = 0,006) sẽ có xu hướng áp dụng VietGAP trong chăn nuôi bò thịt.

Read more

March 2021

  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Hop Nguyen Van
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Trần Thị Ngoan
  • Nguyễn Thị Hạnh
  • Hoàng Như Hà

Ban quản lý rừng phòng hộ (BQLRPH) Tân Phú với diện tích tự nhiên 18.078,43 ha có nhiều loại hình rừng nguy cơ cháy cao trong điều kiện khí hậu 6 tháng mùa khô kéo dài; vì vậy, nghiên cứu đặc điểm vật liệu và nguy cơ cháy rừng là cần thiết. Mục tiêu nghiên cứu là xác định được đặc điểm VLC và phân vùng nguy cơ cháy rừng tại BQLRPH Tân Phú. Nghiên cứu tiến hành lập 30 ô tiêu chuẩn (OTC) đại diện 5 ... [Show full abstract] trạng thái rừng, diện tích OTC là 500 m2. Trong mỗi OTC lập 5 ODB kích thước 4 m2, tiến hành xác định khối lượng vật liệu cháy (VLC) tươi. Trong ODB chia thành 4 ô nhỏ 1 m2, tiến hành gom và cân toàn bộ VLC khô sau đó đem sấy trong phòng thí nghiệm từ đó xác định độ ẩm VLC. Nguy cơ cháy rừng được xác định dựa vào 5 nhân tố chính bao gồm lớp phủ thực vật, địa hình, nhiệt độ, thủy văn, tiếp cận đường giao thông và dân cư. Ứng dụng GIS tích hợp các lớp nhân tố sinh thái phân vùng nguy cơ cháy rừng thành 5 cấp. Kết quả điều tra cho thấy khối lượng VLC trạng thái rừng thường xanh giàu lớn nhất (9,94 tấn/ha), trạng thái rừng có khối lượng VLC nhỏ nhất là rừng hỗn giao – tre nứa (7,19 tấn/ha); Độ dày VLC dao động từ 1,94 – 3,2 cm, Độ ẩm VLC biến động từ 13,7 - 18,73%. Kết quả phân vùng trọng điểm cháy chỉ ra rằng không có diện tích rừng nằm trong mức có nguy cơ cháy rất cao, vùng nguy cơ cháy trung bình có diện tích lớn nhất là 11.699,8 ha chiếm 85,7%, vùng nguy cơ cháy thấp có diện tích nhỏ nhất chiếm 2,7%.

Read more

December 2021

  • Nguyễn Văn Dũng
  • Chu Vũ Sơn
  • Trần Viết Hòa

Mục tiêu: khảo sát nhận thức, thái độ và xác định một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân người dân tộc thiểu số bị Tăng huyết áp tới khám và điều trị tại Bệnh viện Quân y 6. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang 97 bệnh nhân người dân tộc thiểu số được chẩn đoán Tăng huyết áp bằng phỏng vấn, đo đạc các chỉ số nhân trắc theo bộ câu hỏi điều tra soạn sẵn. Kết quả: nhận thức, thái độ của bệnh nhân ... [Show full abstract] về THA: 19.59% chưa nghe về bệnh THA; kiểm tra HA định kỳ 7.21%, khi có triệu chứng 24.74%, không kiểm tra 68.04%; đối tượng biết về tai biến do THA nhưng không đầy đủ chiếm 26.81%; HA tăng tỷ lệ thuận với BMI, p<0.01; Vòng bụng trung bình nữ cao hơn nam (89.83 ± 5.50 cm so với 87.27 ± 5.59 cm), p<0.05, có mối tương quan thuận, mức độ vừa với HA (rHATTr = 0.44, rHATT = 0.56). Kết luận: Nhận thức, thái độ của người dân tộc thiểu số về THA còn rất hạn chế so với vùng đồng bằng, thành phố. Vòng bụng của người dân tộc có xu hướng cao hơn người kinh. THA có mối tương quan thuận với vòng bụng và chỉ số BMI.

Read more

September 2021

  • Trần Thị Thanh Hương
  • Nguyễn Thị Thúy Linh

Tăng huyết áp là bệnh chuyển hóa có thể dự phòng và kiểm soát tốt thông qua thói quen sinh hoạt hàng ngày. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thừa cân, béo phì là yếu tố nguy cơ của bệnh tăng huyết áp, các chỉ số nhân trắc cũng có liên quan đến tình trạng này. Nghiên cứu nhằm tìm hiểu mối tương quan giữa tăng huyết áp và sự thay đổi một số chỉ số nhân trắc và hành vi của người dân 40-70 tuổi. Thiết ... [Show full abstract] kế nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng bộ câu hỏi chuẩn và được hiệu chỉnh cho phù hợp với yêu cầu thực tế. Thông tin thu thập trên 400 người dân từ 40-70 tuổi trên địa bàn 2 quận Nam và Bắc Từ Liêm từ tháng 1-12/2018. Kết quả nghiên cứu cho thấy những người có cân nặng tăng từ 10 đến dưới 20 kg và những người tăng ≥ 20kg có nguy cơ THA cao lần lượt gấp 2,2 và 4,1 lần so với những người có cân nặng giảm/tăng không quá 5 kg. Tỷ lệ THA ở nhóm tăng từ 10 đến dưới 20 kg cao gấp 5,24 lần so với nhóm giảm/tăng không quá 5 kg. Các mối tương quan trên đều có ý nghĩa thống kê.

Read more

Article

Full-text available

January 2006

  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyen Nhat Minh Phuong
  • Lâm Thị Việt Hà
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Võ Xuân
  • [...]
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyen Van Muoi

Sử dụng nhiệt độ thấp và lựa chọn bao bì phù hợp trong tồn trữ trái xoài cát Hòa Lộc sau thu hoạch là vấn đề được quan tâm trong nghiên cứu này. Trái xoài được thu hoạch ở độ tuổi từ 95-100 ngày (được tính từ sau khi hoa nở). Các khoảng nhiệt độ tồn trữ : 8-10, 10-12, 12-14oC (RH ≈ 50%) kết hợp việc sử dụng bao LDPE (25.10-2 x 35.10-2 x 5.10-6 m) đục lỗ. Tỷ lệ đục lỗ: 0,3, 0,5, 1 và 1,5% (so với ... [Show full abstract] tổng diện tích bao bì). Các lỗ được bố trí đều đặn ở hai bên mặt của bao bì với các đường kính lỗ tương ứng 1, 2, 3, 4 và 5 mm. Kết quả cho thấy nhiệt độ tồn trữ thích hợp từ 10-12oC (RH ≈ 50%) trong bao bì LDPE. Việc tạo ra các lỗ có đường kính 3mm trên bề mặt bao bì với tỷ lệ đục lỗ 0,5% cho thấy hiệu quả trong việc ngăn chặn sự đọng ẩm nhưng làm tăng hao hụt khối lượng trái xoài (13,11%). Trái xoài có thể giữ được chất lượng và giá trị cảm quan đến 32 ngày.

View full-text

June 2021

  • Khiếu Trang Ly
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyen Thi Thi Tho
  • Nguyen Thi Phuong Lien
  • [...]
  • Dương Thị Hồng

Hệ thống giám sát tử vong là một trong những hệ thống giám sát nhằm theo dõi sự biến đổi về mô hình bệnh tật và là cơ sở định hướng cho các can thiệp trong phòng bệnh một cách hiệu quả. Áp dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, kết hợp định tính và định lượng, nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả thực trạng và khó khăn trong hoạt động giám sát tử vong ở cộng đồng tại các trạm y tế thuộc 2 ... [Show full abstract] huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình và Thạch Thất, thành phố Hà Nội năm 2017. Kết quả cho thấy các trạm y tế đã thực hiện ghi nhận, thống kê thông tin ca tử vong trong cộng đồng theo sổ A6/YTCS. Tuy nhiên, hoạt động này chưa đồng đều, bài bản và thông tin tử vong chủ yếu thu thập từ y tế thôn/xóm. 21/50 trạm y tế xã chưa có cán bộ chuyên trách về giám sát tử vong, 22/50 trạm y tế chưa có cán bộ được tập huấn. Các trạm y tế xã còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động giám sát tử vong tại cộng đồng vì thiếu công cụ để điều tra. Các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về chẩn đoán nguyên nhân tử vong và mã hoá theo ICD10 cần được xây dựng và được sử dụng như là tài liệu trong các lớp tập huấn nhằm nâng cao kĩ năng cho cán bộ trạm y tế xã và y tế thôn/ xóm.

Read more

December 2021

  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyễn Thị Hòa
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyen Duy Trinh
  • Nguyễn Thị Ngọc Minh
  • [...]
  • Vu Dang Luu

Mục tiêu: Đánh giá hình ảnh siêu âm tuyến vú theo dõi sau hút bỏ u vú bằng phương pháp sinh thiết có hỗ trợ hút chân không (VABB) dưới hướng dẫn siêu âm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu và hồi cứu gồm 143 bệnh nhân với 190 tổn thương được thực hiện tại Trung tâm điện quang – Bệnh viện Bạch Mai từ 8/2018 đến 8/2021. Kết quả: Theo dõi sau hút 1 tháng thấy biến chứng chủ yếu là máu tụ ... [Show full abstract] (87.4%), theo dõi sau 1 – 3 năm cho thấy hầu hết các tổn thương không để lại dấu vết (từ 75% theo dõi sau 1-2năm lên 84.2% sau hút 2 năm trở lên) hoặc chỉ có sẹo nhỏ hoặc biến dạng cấu trúc nhỏ, chỉ có một trường hợp còn sót u phát hiện sau hút 1 năm do yếu tố khách quan. Thể tích sẹo trung bình sau hút 1-2năm là 0.01 ± 0.03cm3, sau 2 năm là 0.01 ± 0.02cm3. Có mối tương quan tuyến tính thuận giữa máu tụ và sẹo sau hút với thể tích u và số mảnh cắt, giữa sẹo và thể tích máu tụ sau hút. Kết luận: VABB là một phương pháp an toàn, hiệu quả, có tính thẩm mỹ cao, chẩn đoán chính xác tổn thương vú, là lựa chọn để điều trị các u vú lành tính.

Read more

Article

Full-text available

November 2021

  • Nguyễn Thị Thu Hà
  • Phạm Hoàng Anh
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyen Trong Hung
  • Kiều Thị Hoa

Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 220 người bệnh đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tại Khoa khám bệnh Bệnh viện Nội tiết Trung ương cơ sở Ngọc Hồi năm 2021 nhằm mô tả thực trạng tuân thủ điều trị dùng thuốc trên nhóm đối tượng này. Kết quả cho thấy 87,7% người bệnh đái tháo đường týp 2 điều trị ngoại trú tuân thủ dùng thuốc. Trong tổng số 64 đối tượng quên thuốc có 71,9% đối tượng ... [Show full abstract] quên uống thuốc; 4,7% đối tượng quên thuốc tiêm; 23,4% đối tượng quên cả thuốc uống và thuốc tiêm. Lý do chính khiến đối tượng quên thuốc uống là: do bận và quên. Duy nhất chỉ có 1 đối tượng bỏ thuốc vì chuyển sang dùng thực phẩm chức năng. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi khuyến nghị cần tăng cường hướng dẫn và tư vấn cụ thể về tuân thủ điều trị cho người bệnh đái tháo đường.

View full-text

September 2021

  • Phương Thúy Hồ
  • Văn Hoàng Bàn
  • Ngọc Anh Nguyễn
  • Xuân Kiên Hà

Mục tiêu: Đánh giá sự hài lòng của người bệnh về chất lượng chăm sóc của Điều dưỡng tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang được thực hiện trên 200 người bệnh đến khám tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang từ tháng 7/2020 đến tháng 9/2020. Sử dụng mẫu phiếu khảo sát sự hài lòng của người bệnh dựa theo ... [Show full abstract] hướng dẫn số 3869/QĐ-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế. Kết quả: Tỷ lệ người bệnh hài lòng về công tác chăm sóc người bệnh của Điều dưỡng là rất cao, dao động từ 95% - 100%. Tuy nhiên, vẫn còn một số người bệnh chưa hài lòng ở các tiêu chí: Đảm bảo sự riêng tư khi nằm viện như thay quần áo, khám bệnh, đi vệ sinh tại giường..., có rèm che, vách ngăn hoặc nằm riêng chiếm 5,0%; Điều dưỡng tư vấn chế độ ăn, vận động, theo dõi và phòng biến chứng chiếm 5,0% và Điều dưỡng thực hiện thuốc đúng giờ chiếm 8,0%. Kết luận: Cần thường xuyên giáo dục y đức, nâng cao giao tiếp, kỹ năng chăm sóc, tư vấn giáo dục sức khỏe cho Điều dưỡng, cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, hạ tầng và phương tiện phục vụ người bệnh.

Read more

Article

Full-text available

April 2020 · HUE UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT

  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Nguyễn Văn Bình
  • Trần Nguyên Tú
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Hồ Kiệt

Tóm tắt: Bài báo đánh giá thực trạng quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Bài báo sử dụng Phương pháp thu thập số liệu, Phương pháp so sánh, Phương pháp đánh giá hiệu quả quản lý nhà nước và sử dụng đất lâm nghiệp và Phương pháp phân tích, xử lý số liệu. Với diện ... [Show full abstract] tích đất lâm nghiệp chiếm đến 41,5% tổng diện tích tự nhiên, việc quản lý đất lâm nghiệp tại thành phố Quy Nhơn hiện nay gặp rất nhiều khó khăn vì mức độ biến động phức tạp đang diễn ra. Việc phân tích các tài liệu thu thập được từ địa phương và khảo sát điều tra người dân và cán bộ trên địa bàn thành phố cho thấy chất lượng thực hiện công việc của đội ngũ cán bộ địa chính xã, phường đạt được hiệu quả khả quan. Ngoài ra, từ việc đánh giá tổng hợp từng tiêu chí quản lý nhà nước về đất lâm nghiệp, các chỉ tiêu có điểm tổng hợp đạt mức khá, trong đó công tác thành lập các bản đồ và quản lý hồ sơ địa chính, đánh giá và định giá đất đạt điểm đánh giá cao nhất với 3,39 điểm. Tỷ suất lợi ích – chi phí (BCR) trung bình năm cho thấy hiệu quả kinh tế sử dụng đất lâm nghiệp của thành phố Quy Nhơn đạt ở ngưỡng cao của mức trung bình với BCR từ 1,58 đến 1,74. Nghiên cứu đã chỉ ra được hiệu quả sử dụng đất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố Quy Nhơn đạt ở mực có hiệu quả khá cao.Từ khóa: đất lâm nghiệp, hiệu quả sử dụng, Quy Nhơn, quy hoạch

View full-text

November 2020

  • Duong Trung Hieu
  • Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại
    Pham Huu Lu

Nghiên cứu mô tả hồi cứu, cắt ngang, với các thông số trước, trong và sau mổ cùng kết quả giải phẫu bệnh lýđối với tất cả các trường hợp có chẩn đoán sau mổ là u trung thất sau được phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, từ tháng 1 năm 2015 tới tháng 12 năm 2018. Bao gồm 41 đối tượng, 18 nam và 23 nữ. Độ tuổi trung bình 38,7 ± 14,7 (8 – 68). Phát hiện bệnh tình cờ ở 14 ca (34,1%). ... [Show full abstract] Trong số 27 ca có triệu chứng, hay gặp nhất là đau ngực (53,7%). Kết quả chụp cắt lớp vi tính và cộng hưởng từlồng ngực có giá trị chẩn đoán cao (100%), song có tới 34 ca chụp X-quang ngực thường quy (82,9%) thấy rõ bờ khối u. Có 9 ca (22,0%) mổ nội soi hoàn toàn, 32 ca mổ nội soi hỗ trợ (78,0%). Kích thước u trung bình 5,59 ± 1,95 cm (3-10). Tỉ lệ u lành tính chiếm 100 %. Cắt u thành công ở 100% các trường hợp, với 3 ca biến chứng (1 máu cục màng phổi, 1 ổ cặn màng phổi, 1 rò ống ngực) được điều trị khỏi. Thời gian phẫu thuật là 106,2 ± 37,1 phút (60- 210). Thời gian rút dẫn lưu màng phổi là 4,5± 1,8 ngày (2-12). Thời gian nằm viện sau mổ là 6,1 ± 1,9 ngày (4-13). Phẫu thuật nội soi lồng ngực điều trị u trung thất sau là phương pháp an toàn, khả thi và kết quả tốt sau phẫu thuật với nhóm u trung thất sau được chỉ định.

Read more

July 2020 · Journal of Clinical Medicine- Hue Central Hospital

Đặt vấn đề: Tư vấn giáo dục sức khỏe là một trong những nhiệm vụ của người điều dưỡng. Mục tiêu: 1. Mô tả hoạt động tư vấn giáo dục sức khỏe của điều dưỡng tại các khoa lâm sàng và đánh giá hài lòng của người bệnh về công tác tư vấn giáo dục sức khỏe. 2. Đánh giá kỹ năng tư vấn, giáo dục sức khỏe cho người bệnh của điều dưỡng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Khảo ... [Show full abstract] sát ý kiến của 196 người bệnh (NB), tại 13 khoa lâm sàng tại thời điểm xuất viện. Thu thập dữ liệu với bộ câu hỏi được thiết kế sẵn. Kết quả: Tham gia tư vấn giáo dục sức khỏe gồm 100% là người bệnh, có trình độ dưới phổ thông (53,1%). Tỷ lệ điều dưỡng thực hiện các nội dung tư vấn giáo dục sức khỏe đạt hiệu quả khác nhau. Trong đó, việc hướng dẫn giải thích của điều dưỡng trước khi làm các thủ thuật, tiêm truyền, các kỹ thuật cận lâm sàng như : siêu âm, X quang, nội soi đạt tỷ lệ cao nhất (97,5%). NB đánh giá kỹ năng của điều dưỡng trong buổi tư vấn giáo dục sức khỏe nói to, rõ ràng, thu hút người nghe, nội dung phù hợp và truyền đạt dể hiểu đạt 100%. Tuy nhiên, vẫn còn 63,3% NB đánh giá buổi tư vấn thiếu hình ảnh minh họa. Hình thức tư vấn giáo dục sức khỏe cá nhân được sử dụng nhiều hơn hình thức tư vấn giáo dục sức khỏe theo nhóm. Kết luận: Hoạt động tư vấn giáo dục sức khỏe được NB đánh giá cao (có đến 95,9% NB hài lòng và rất hài lòng khi tham gia buổi tư vấn giáo dục sức khỏe tại các khoa lâm sàng); nghiên cứu cho thấy cần phải có sự chuẩn bị về tài liệu cho hoạt động tư vấn giáo dục sức khỏe, có hình ảnh minh họa để NB nắm được nội dụng rõ ràng. Đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát để hoạt động này đạt hiệu quả cao hơn.

Read more

Tỷ lệ học sinh sử dụng điện thoại