Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc viết ở đâu
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" thấm đẫm tinh thần yêu nước, được viết năm 1861. Show
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác để ngợi ca, thương tiếc những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc năm 1861. Ảnh: Báo Long An. Địa danh Cần Giuộc trong bài thơ thuộc tỉnh Long An ngày nay. Ngày 16/12/1861, Bùi Quang Diệu chỉ huy 3 cánh quân tập kích đồn Tây Dương ở chợ Trường Bình, Cần Giuộc, nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, hạ được một số lính. Pháp liền dùng đại bác từ tàu chiến đậu trên sông Cần Giuộc để chiếm lại đồn. Phía nghĩa quân hy sinh 15 người (có tài liệu ghi là 27 người). Nguyễn Đình Chiểu, lúc bấy giờ về Cần Giuộc, ở chùa Tôn Thạnh bốc thuốc, dạy học và sáng tác thơ văn. Ông đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc như lời truy điệu các nghĩa sĩ hy sinh trong trận đánh này. Ảnh: Thư viện lịch sử. Ngư tiều y thuật vấn đáp (ông Ngư, ông Tiều hỏi đáp về thuật chữa bệnh) là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Đình Chiểu, gồm 3.642 câu, trong đó phần lớn là thơ lục bát, có xen 21 bài thơ và một số bài thơ ca, phú. Đây là truyện thơ dài của Nguyễn Đình Chiểu với 2 nhân vật chính của truyện, Bào Tử Phược và Mộng Thê Triền, vì gặp cảnh mất nước nên đã đi ở ẩn làm ngư (người đánh cá), làm tiều (người đốn củi), sau đó gặp thầy truyền cho y thuật trị bệnh cứu đời. Ngoài dạy nghề làm thuốc chữa bệnh, viết dưới hình thức truyện thơ Nôm, tác giả đã lồng tư tưởng yêu nước vào nội dung y thuật để thức tỉnh dân tộc đang bị thực dân Pháp xâm lược. Ảnh: Hội Nhà văn. Theo nhiều tư liệu, bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiều được tác giả viết khi thành Gia Định bị thực dân Pháp chiếm năm 1859. Bài thơ lột tả được nỗi thống nhục của người dân mất nước với những câu: Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây / Một bàn cờ thế phút sa tay / Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy / Mất ổ bầy chim dáo dác bay / Bến Nghé của tiền tan bọt nước / Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây / Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này. Ảnh: Thư viện lịch sử. Vương Tử Trực và Hớn Minh là 2 nhân vật trong truyện thơ Lục Vân Tiên do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác. Theo nội dung cốt truyện, cả Hớn Minh và Vương Tử Trực đều là những người bạn tốt của Lục Vân Tiên. Ảnh: Hội Nhà văn Đây là 2 câu thơ trong bài thơ Than đạo của Nguyễn Đình Chiểu. Hai câu thơ này cũng chính là minh chứng tiêu biểu cho quan điểm văn học của Nguyễn Đình Chiểu. Vốn là nhà nho yêu nước, bị mù không thể cầm vũ khí chống giặc, Nguyễn Đình Chiểu sử dụng văn chương để “đánh giặc”. Ảnh: Nhà xuất bản Kim Đồng. Nữ sĩ Sương Nguyệt Anh (1864-1921) có tên thật là Nguyễn Thị Khuê, sinh tại xã An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là con gái thứ tư của nhà thơ nổi tiếng Nguyễn Đình Chiểu. Bà là nhà thơ, nữ chủ bút đầu tiên của Việt Nam. Tờ báo nữ giới đầu tiên được xuất bản tại Sài Gòn mang tên Nữ giới chung do bà làm chủ bút. Ảnh: Hội Nhà văn. Hà Sơn (Theo Zing) Mời các bạn đồng hành cùng báo Dân Việt trên mạng xã hội Facebook để nhanh chóng cập nhật những tin tức mới và chính xác nhất.
Tin cùng chuyên mục
Tin nổi bật
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn tế do Nguyễn Đình Chiểu sáng tác[1][2][3] để ngợi ca, thương tiếc và kính phục những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp tại Cần Giuộc vào năm 1861. Mục lục
Xuất xứSửa đổiNăm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công v.v... Đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (ngày 16 tháng 12 năm 1861),[4] những nghĩa sĩ mà trước đây vốn là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã quả cảm tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng 20 nghĩa sĩ bỏ mình.[5] Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này. (adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({}); Nghệ thuật trung tâmSửa đổiBài văn tế này bằng chữ Nôm, gồm 30 liên, tức 60 vế đối biền ngẫu, làm theo thể phú luật Đường luật, có vần, có đối. Toàn bài mang tính chất trầm hùng, bi thiết, có sức cổ vũ lớn. Cái đặc sắc, kỳ thú ở bài văn là dùng nhiều ngôn ngữ và chi tiết bình thường, quen thuộc trong đời sống hàng ngày mà dựng lên được hình ảnh rất sống của thế hệ những người chống Pháp tiêu biểu buổi ấy... Nói cách khác, bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực. Ngôn ngữ thì bình dị, mộc mạc, giàu lời ăn tiếng nói thân thuộc của nhân dân, đặc biệt là bản sắc địa phương Nam Bộ.[6] Nhận xétSửa đổiChùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc. Nơi đây, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Kết lại, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm xúc động nhất về người anh hùng nông dân Nam Bộ. Đó là những người quanh năm nghèo khó, chưa từng cầm vũ khí, nhưng khi quân Pháp đến thì xông lên chiến đấu quên mình, biểu thị tinh thần dũng mãnh bất khuất, tiêu biểu cho ý chí độc lập, tự do của dân tộc. Bài văn không chỉ là một thiên anh hùng ca đặc sắc, mà còn là lời bộc bạch gan ruột của những người dân không chịu làm nô lệ, thề đánh quân xâm lược đến cùng, là lời trách móc thâm trầm đối với thái độ đầu hàng... Bởi vậy, khi bài văn tế này lan truyền đến Huế, chính vua Tự Đức đã ra lệnh phổ biến trong nhiều địa phương khác. Nhà thơ Miên Thẩm Tùng Thiện Vương và Mai Am nữ sĩ đã có thơ ca ngợi, là: "thư sinh giết giặc bằng ngòi bút" (Tùng Thiện Vương), là "Quốc ngữ một thiên truyền mãi mãi" (Mai Am)...[9] Chú thíchSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|