Vua Quang Trung mất năm bao nhiều

[Baonghean.vn] - Đã thành thông lệ, vào dịp 29/7 âm lịch hằng năm, người dân khắp nơi lại về Khu di tích Đền thờ Quang Trung tại núi Dũng Quyết, phường Trung Đô, [T.P Vinh] để dâng hương tưởng nhớ công lao to lớn của người Anh hùng áo vải cờ đào Quang Trung - Nguyễn Huệ.

Ngày 16/9 [tức 29/7 năm Canh Tý], tại Khu di tích Đền thờ Hoàng đế Quang Trung, diễn ra lễ tưởng niệm 228 năm ngày mất của vị Anh hùng áo vải Tây Sơn - Nguyễn Huệ.

Tham dự lễ có các đồng chí: Phan Đức Đồng - Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Vinh; Đại tá Thái Đức Hạnh - Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu IV, Thượng tá Đinh Bạt Văn - Phó Chỉ huy trưởng Ban CHQS tỉnh, Trần Thị Mỹ Hạnh - Giám đốc Sở VH&TT tỉnh, Trần Ngọc Tú - Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND thành phố Vinh, đại diện các ban, ngành cùng đông đảo nhân dân và du khách gần xa.

Các đại biểu tham dự lễ. Ảnh: Thành Cường

Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ hay Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ là vị vua thứ 2 của nhà Tây Sơn - một thiên tài quân sự kiệt xuất, một nhà chính trị khôn ngoan, mưu lược,...

Nguyễn Huệ sinh năm 1753 ở thôn Tây Sơn, huyện Phù Ly, phủ Quy Nhơn, ngày nay thuộc làng Kiên Mỹ, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Ông mất năm 1792 tại Phú Xuân. Cuộc đời chinh chiến từ năm 18 tuổi oai hùng lẫm liệt đánh Nam, dẹp Bắc suốt 20 năm, ông lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung năm 36 tuổi.

Đền thờ Hoàng đế Quang Trung tại Nghệ An được xây dựng trên núi Dũng Quyết, phường Trung Đô, thành phố Vinh. Ảnh: Thành Cường

Quang Trung - Nguyễn Huệ là nhân vật chủ chốt của cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn lật đổ Chúa Nguyễn ở đàng trong. Ông cùng các anh em mình là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ được dân chúng thời bấy giờ gọi là anh em nhà Tây Sơn, đã lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa nông dân Tây Sơn. Đây là cuộc khởi nghĩa nông dân duy nhất trong lịch sử Việt Nam thành công và lập lên một Triều đại Quân chủ, chấm dứt hơn 200 năm nội chiến đẫm máu giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn, phân tranh gây chia cắt hai miền đất nước [qua dòng sông Gianh] đánh bại nhà Hậu Lê và các cuộc xâm lược của quân Xiêm La từ phía Nam, quân Đại Thanh từ phía Bắc.

Các đại biểu dâng hương tưởng nhớ công ơn của vị anh hùng áo vải. Ảnh: Thành Cường

Theo lịch sử ghi, Nguyễn Huệ - Quang Trung nhìn thấy rõ thế chiến lược của vùng đất Dũng Quyết, đã hạ chiếu cho xây dựng thành Phượng Hoàng - Trung Đô để đóng đô ở Nghệ An. Tiếc rằng, Vua Quang Trung đột ngột qua đời vào ngày 29/7 năm Nhâm Tý [1792] nên chưa kịp dời đô từ Phú Xuân ra Phượng Hoàng Trung Đô.

Đền thờ Hoàng đế Quang Trung ở Nghệ An được xây dựng trên đỉnh núi Dũng Quyết, phường Trung Đô, thành phố Vinh, đây là công trình văn hóa tâm linh, là nơi để nhân dân và du khách thập phương chiêm bái linh từ, thắp nén hương thơm bày tỏ lòng thành kính, tri ân vị Hoàng đế anh minh.

Đông đảo người dân và du khách thập phương về thắp hương tưởng nhớ ngày mất của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ. Ảnh: Thành Cường

Lễ tưởng niệm 228 năm ngày mất của Quang Trung - Nguyễn Huệ được tổ chức trang trọng theo nghi thức truyền thống, nhằm tưởng nhớ và biết ơn người anh hùng dân tộc đã có công chống giặc ngoại xâm thống nhất đất nước; tuyên truyền, quảng bá và phát huy giá trị văn hóa tâm linh gắn với các hoạt động phát triển dịch vụ, du lịch; đáp ứng nhu cầu tâm linh của nhân dân.

Bí ẩn lăng mộ vua Quang Trung

Nhiều tư liệu về Hoàng đế Quang Trung đã bị vua Gia Long hủy hoại khiến việc tìm dấu tích nơi an táng của vị vua triều Tây Sơn đến nay vẫn chưa sáng tỏ

  • Xây tượng Hoàng đế Quang Trung tại ĐH Quốc gia TP HCM

  • Kỷ niệm 222 năm ngày mất Hoàng đế Quang Trung

Câu chuyện về lăng mộ vua Quang Trung một lần nữa được xới lên tại hội thảo khoa học “Cung điện Đan Dương thời Tây Sơn tại Huế” tổ chức cuối tuần qua. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân [TP Huế] là người đầu tiên phát hiện và khẳng định cung điện Đan Dương có liên quan đến nơi an nghỉ của vị vua này.

Không ở Phú Xuân, xây cung điện riêng?

Ròng rã gần 30 năm dành thời gian nghiên cứu về lịch sử triều Tây Sơn và nơi an táng của vua lừng danh Quang Trung [1753-1792], ông Nguyễn Đắc Xuân có một kho tư liệu tìm được từ trong và ngoài nước. Ông cho rằng cung điện Đan Dương là nơi ở, làm việc của vua Quang Trung và triều đình Tây Sơn, cũng là nơi chôn cất khi vua băng hà.

Cổng thành Phú Xuân thời Nguyễn sơ nhưng vua Quang Trung được cho là chưa từng ở đây. [Ảnh do Nguyễn Đắc Xuân sưu tầm].

Năm 1786, Nguyễn Huệ kéo quân từ Bình Định ra đánh quân Trịnh ở đất Phú Xuân [Huế bây giờ] và lúc đó đô thành Phú Xuân nằm chỗ cửa Thượng Tứ ở sát chợ Đông Ba ngày nay. Thắng trận, Nguyễn Huệ không vào đô thành Phú Xuân trước khi ra Bắc diệt Trịnh bởi ông nhận thấy điểm yếu của kinh đô là bị kẹp giữa sông Hương và sông Kim Long, dễ bị thủy quân địch tấn công. Ngoài ra, quân đội Tây Sơn gồm nhiều voi, ngựa và người Thượng nên Nguyễn Huệ sử dụng một nơi trú quân đã có sẵn nằm trên gò núi cao, có thể quan sát được mọi động tĩnh ở đô thành bên kia sông.

Tượng đài vua Quang Trung được xây ở núi Bân - nơi Nguyễn Huệ làm lễ lên ngôi Ảnh: QUANG NHẬT

Sau khi tiếp tục hành quân ra Bắc vào năm 1786, khi trở lại Phú Xuân và lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung vào năm 1788, Nguyễn Huệ cũng không ở trong đô thành mà cho xây cung điện, thành quách bởi trước đó ông đã có quyết định dời kinh đô ra Nghệ An [Phượng Hoàng trung đô].

Để củng cố thêm phân tích của mình, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân viện dẫn một lá thư của giáo sĩ La Bartette viết ngày 23-7-1788, có đoạn: “Từ khi tân vương [Nguyễn Huệ] về Phú Xuân, ông ấy bận phòng ngự, đã cho xây cất một bức tường cao 6,48 m chung quanh dinh ông. Hình như ông gấp lắm nên bắt mọi người làm việc sáng đêm không nghỉ”.

Sách “Lê quý dật sử” của Bùi Dương Lịch [1758-1828, cùng thời Quang Trung] viết vào năm 1789 cũng chép: “Nguyễn Huệ thắng trận trở về bèn định đô ở Phú Xuân, đắp thêm thành quách, mở rộng cung điện…”. Cuốn khởi thảo “Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà 1792-1793” của Macartney, đại sứ nước Anh tại Trung Quốc, có viết: “Nguyễn Huệ hầu như chưa đặt chân tới kinh đô của mình là Huế - phủ trước khi ông ta có cơ hội để gây sự với vua Bắc Hà”.

Cái chết được giữ kín

Ngày 16-9-1792, vua Quang Trung băng hà khi mới 39 tuổi. Trước khi biết mình không thể qua khỏi, vua đã cho mời 2 trọng thần Trần Quang Diệu và Trần Văn Kỷ đến bên giường, dặn dò rằng việc chôn cất phải sơ sài, trong 1 tháng phải xong, đồng thời nhanh chóng phò thái tử sớm về Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An để khống chế thiên hạ, “nếu không thì binh Gia Định đến, bọn ngươi không có chỗ chôn”.

Quang Trung qua đời, thái tử Quang Toản lên kế ngôi [hiệu Cảnh Thịnh] và việc băng hà của vua cha được giữ bí mật tuyệt đối vì các thế lực đang lăm le: phương Bắc là quân Thanh, phía Nam là quân Gia Định, còn các thừa sai Thiên Chúa giáo thì ở cạnh, âm mưu tranh giành quyền lực với Nguyễn Nhạc và cả Nguyễn Ánh.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, việc vua Quang Trung băng hà được giữ bí mật tuyệt đối ngay cả với các quần thần. “Ngay cả La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp mà cũng không biết vua mất, khi biết thì cũng không được vào vì đường sá canh nghiêm. Còn đối với các thừa sai Thiên Chúa giáo, dù ở gần nhưng cái chết của vua Quang Trung chỉ được họ ghi nhận sớm nhất vào cuối tháng 12-1792 bởi lá thư của ông Longer, một vị giám mục cai quản địa phận Tây Bắc Hà nhưng vẫn chưa dám chắc” - ông Xuân dẫn sử liệu cho biết.

Để đối phó với nhà Thanh, sau khi lên ngôi, thái tử Quang Toản đã cử Ngô Thì Nhậm dẫn đầu một đoàn ngoại giao qua Trung Quốc báo tang và xin tấn phong vua mới. Để che giấu hành vi đối phó của mình, sứ đoàn báo vua Quang Trung đã mất vào tháng 9 âm lịch, chậm hơn 2 tháng so với lúc vua mất và táng ở Linh Đường [Hà Nội]. Muốn giữ được bí mật tuyệt đối thì chỉ còn cách táng vua ngay tại cung điện, từ đó cung điện trở thành lăng mộ của vua.

Bên cạnh đó, trong bài thơ “Cảm hoài” do Ngô Thì Nhậm viết khi sang Trung Quốc báo tin vua Quang Trung mất có chú một đoạn rằng “Cung điện Đan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta”. Như vậy, cung điện của vua Quang Trung là Đan Dương. Sau khi vua mất phải táng ở đây để giữ bí mật và nó trở thành Đan Lăng - theo ông Nguyễn Đắc Xuân.

Tuy nhiên, việc giữ bí mật nơi táng vua Quang Trung không thể qua mắt được bà Ngọc Tuyên [cô ruột của Nguyễn Ánh], cùng với sự chống phá nhau quyết liệt trong nội bộ triều đình dưới thời vua Cảnh Thịnh.

Sử liệu và lập luận của ông Nguyễn Đắc Xuân được cho là phong phú và khá logic. Dù vậy, giới nghiên cứu vẫn đưa ra những giả thuyết khác cũng không kém phần thuyết phục…

Kỳ tới: Có cung Đan Dương ở Huế?

Bị trả thù tàn khốc

Theo “Đại Nam thực lục chính biên” của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào tháng 11 năm Tân Dậu [1801], sau khi thu phục được Phú Xuân, Nguyễn Ánh đã trả thù nhà Tây Sơn một cách tàn nhẫn bằng việc phá hủy mộ Quang Trung, bổ hòm, phơi thây, bêu đầu ở chợ. Còn “Đại Nam liệt truyện” ghi rằng mùa đông năm 1801, xa giá trở về kinh đô báo cáo với tông miếu và dâng hiến tù binh; tội phạm Tây Sơn đều bị giết để trừng trị, đào phá mộ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, giã nát và đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào nhà ngục.

“Với chính sách “tận pháp trừng trị”, ngay cả một đồng xu cũng nấu chảy, vậy nên hiện giờ không còn một tư liệu nào liên quan đến triều Tây Sơn nữa. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các nhà nghiên cứu lịch sử về việc tìm ra ngôi mộ của vua Quang Trung” - nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân băn khoăn.

Quang Nhật

Video liên quan

Chủ Đề