Xu hướng đổi mới phương thức đào tạo đại học theo định hướng ứng dụng nghề nghiệp

Nhìn lại chặng đường giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng [POHE] tại Việt Nam


Trong Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2015 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, lần đầu tiên khái niệm “giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng” được đề cập tới trong một văn bản quy phạm pháp luật quan trọng của ngành. Cho đến nay, Dự án POHE là dự án duy nhất ở Việt Nam triển khai cách tiếp cận đào tạo theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng nhằm  hiện thực hóa mục tiêu “70-80% sinh viên theo học các chương trình đào tạo nghề nghiệp ứng dụng vào năm 2020”.

 

  

Tại Hội nghị “Báo cáo kết quả triển khai chương trình giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng tại Việt Nam”, Ông Bùi Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Giáo dục đại học, Giám đốc Dự án POHE 2 đã tổng kết những kết quả của chương trình POHE tại Việt Nam từ năm 2005 đến nay. Trong đó, thành tựu nổi bật nhất đó là xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo POHE; đào tạo đội ngũ giảng viên có năng lực giảng dạy theo phong cách POHE; bước đầu hình thành mối quan hệ hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong các khâu của chương trình đào tạo. Một số trường đại học đang có kế hoạch mở rộng chương trình đào tạo POHE sang những ngành đào tạo phù hợp. Qua 8 năm, các chương trình POHE đã và đang chứng minh lợi ích của việc gắn kết với thế giới việc làm, qua đó tạo ra những em sinh viên có kỹ năng chuyên môn và giao tiếp tốt, tự tin, sáng tạo và linh hoạt, nhờ được rèn luyện trong môi trường thực tế của nghề nghiệp.

 

 

Ông Bùi Anh Tuấn - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học, Giám đốc Dự án POHE 2 phát biểu khai mạc và chủ trì Hội nghị

Hướng tới một nền giáo dục đại học đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường lao động


Bước sang giai đoạn 2, Dự án POHE 2 hướng tới mục tiêu nhân rộng, phổ biến khái niệm POHE tới toàn hệ thống. Tại Hội nghị, các diễn giả là những cán bộ quản lý giáo dục, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, giới doanh nghiệp đã mang đến những tri thức và kinh nghiệm phong phú về công tác triển khai POHE tại Việt Nam. Các đại biểu đã thảo luận sôi nổi về những chủ đề như: xây dựng tiêu chuẩn giảng viên POHE, phát triển chương trình đào tạo POHE, mối quan hệ hợp tác trường đại học và doanh nghiệp, khảo sát trải nghiệm sinh viên. Nội dung cụ thể của các chủ đề trong Hội nghị sẽ được trình bày trong những bài viết tiếp theo trên website Dự án POHE 2.

Chặng đường phía trước của POHE


Đào tạo theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng là một định hướng đổi mới đúng đắn của giáo dục đại học, tuy nhiên, để nhân rộng khái niệm POHE, các nhà trường đại học và cả hệ thống giáo dục đại học sẽ phải đương đầu với không ít thách thức. Hội nghị lần này đã dành thời lượng đáng kể để thảo luận về vị trí của POHE trong hệ thống giáo dục đại học phân tầng cũng như các phương án và điều kiện thực hiện phân tầng giáo dục đại học. Bên cạnh đó, nhiều đại biểu cũng cho rằng việc xây dựng và áp dụng một khung tiêu chuẩn năng lực giảng viên POHE thống nhất cho các cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng, phương thức tổ chức và quản lý chương trình đào tạo POHE cũng là những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.

 

 

Ông Bùi Văn Ga - Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phát biểu kết luận Hội nghị và nhấn mạnh ý nghĩa  quan trọng của Dự án POHE 2. 

 

Phát biểu kết luận tại Hội nghị, Ông Bùi Văn Ga – Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh ý nghĩa của Dự án POHE 2 trong việc giải quyết những thách thức hiện tại của giáo dục đại học. Ông cũng hy vọng trong thời gian tới, Dự án POHE 2 sẽ tiếp tục đóng góp kỹ thuật và kinh nghiệm cho việc xây dựng các chính sách ở cấp hệ thống để thực hiện đổi mới  căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam.

Sau 2 ngày làm việc, Hội nghị “Báo cáo kết quả triển khai chương trình POHE tại Việt Nam” đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Có thể nói, thành công của Hội nghị này sẽ là một dấu mốc quan trọng trong việc phát triển, nhân rộng những kết quả của Dự án POHE 2 tới toàn hệ thống giáo dục đại học và mở ra những triển vọng mới cho POHE tại Việt Nam./.

 

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Dự án Giáo dục Đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng POHE

Tạp chí Văn hóa và nguồn lực

Số 2 [22] | 2020

ĐÀO TẠO THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY

Tóm tắt: Việc nghiên cứu, phân tích để không ngừng cải tiến, đổi mới và phát triển chương trình đào tạo, sao cho vừa đảm bảo tính khoa học vừa sát với tình hình thực tiễn là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với mỗi cơ sở đào tạo, đặc biệt là đối với chương trình đào tạo theo định hướng ứng dụng – tiếp cận năng lực. Đồng hành với quá trình xây dựng và phát triển chương trình đào tạo theo định hướng ứng dụng của Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh [TP.HCM], bài viết này trình bày một số vấn đề về quan điểm, cách tiếp cận và đặc trưng, ưu thế của chương trình đào tạo theo định hướng ứng dụng [tiếp cận năng lực], đối chiếu với chương trình đào tạo hiện nay của trường, từ đó khuyến nghị một số hướng giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng chương trình đào tạo của trường trong thời gian tới.

Trường Đại học Văn hóa TP.HCM là đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có chức năng, nhiệm vụ đào tào, nghiên cứu khoa học văn hóa, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong lĩnh vực hoạt động văn hóa ở phía Nam và cả nước. Trên cơ sở kế thừa thành quả đào tạo hơn 40 qua; khẳng định các lợi thế về chương trình đào tạo, cơ sở vật chất và đặc biệt là nguồn nhân lực giảng dạy có trình độ, uy tín và kinh nghiệm lâu năm trong đào tạo các nghề nghiệp đặc thù thuộc lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thông tin, du lịch; kịp thời nắm bắt được yêu cầu của nhà nước và nhu cầu của xã hội về nguồn nhân lực hoạt động văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta; từ năm 2015 Trường Đại học Văn hóa TP.HCM đã xác định tổ chức điều chỉnh nội dung chương trình đào tạo theo định hướng ứng dụng, tăng cường và nâng cao chất lượng tổ chức đào tạo, khẳng định đào tạo ứng dụng là hướng phát triển phù hợp nhất của trường.

1. Quan niệm và cách tiếp cận trong đào tạo theo định hướng ứng dụng

1.1. Quan niệm về đào tạo theo định hướng ứng dụng

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 2 Nghị định 73/2015/NĐ-CP chương trình đào tạo định hướng ứng dụng là chương trình đào tạo có mục tiêu và nội dung xây dựng theo hướng phát triển kết quả nghiên cứu cơ bản, ứng dụng các công nghệ nguồn thành các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh phục vụ nhu cầu đa dạng của con người.

Đặc trưng của chương trình đào tạo theo định hướng ứng dụng:

  • Phát triển các kết quả nghiên cứu cơ bản: lý thuyết, lý luận cơ bản;
  • Ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ nguồn tạo thành các giải pháp công nghệ, quy trình quản lý, thiết kế các công cụ hoàn chỉnh;
  • Phục vụ nhu cầu đa dạng của con người.

Từ những đặc trưng trên cho thấy, chương trình đào đạo theo định hướng ứng dụng phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:

  • Cung cấp cho người học có được nền tảng lý thuyết, lý luận khoa học cơ bản, phù hợp và có thể áp dụng trực tiếp vào ngành, nghề
  • Dạy cho người học tư duy phương pháp để vận dụng các kiến thức lý thuyết, sản phẩm khoa học kỹ thuật, công nghệ nguồn có sẵn nhằm tạo ra các sản phẩm khoa học ứng dụng như: hệ thống giải pháp, quy trình, mô hình, dữ liệu gốc văn hóa nghệ thuật,… [không nhất thiết phải thực hành mô hình, hay quy trình đó].

Ví dụ: cung cấp cho sinh viên lý thuyết về quản lý hành chính công theo tiêu chuẩn PAPI[1]; từ đó hướng dẫn cho sinh viên phương pháp ứng dụng lý thuyết này để tạo ra bộ công cụ quản lý chất lượng hoạt động phục vụ công của một thiết chế văn hóa cụ thể nào đó.

1.2. Cách tiếp cận năng lực trong phát triển chương trình đào tạo

Có nhiều cách tiếp cận để xây dựng và phát triển chương trình đào tạo khác nhau. Qua tham khảo tài liệu“Phát triển chương trình đào tạo đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng” [Dự án phát triển giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng [POHE] ở Việt Nam giai đoạn II, của Bộ GD&ĐT][2] có thể thấy một số cách tiếp cận như:

[1] Cách tiếp cận nội dung; xem giáo dục là quá trình truyền thụ nội dung – kiến thức.

[2] Cách tiếp cận mục tiêu; dựa vào các mục tiêu đầu ra cơ sở đào tạo lựa chọn nội dung, phương pháp và cách thức đánh giá kết quả đào tạo; quan tâm tới những thay đổi của người học sau khi kết thúc khóa học về nhận thức, kỹ năng, thái độ.

[3] Cách tiếp cận phát triển; chú trọng đến phát triển sự hiểu biết ở người học hơn là truyền thụ nội dung kiến thức đã được xác định trước hay tạo nên sự thay đổi nào đó về hành vi ở người học. Quan tâm tới nhu cầu, lợi ích của người học; người học phải chủ động phát triển sự hiểu biết, độc lập suy nghĩ, kiên trì học tập cùng với sự giúp đỡ của người dạy để xây dựng và hoàn thiện mục tiêu học tập của riêng mình.

[4] Cách tiếp cận năng lực; đề cao tới là khả năng của người học có thể giải quyết được công việc cụ thể nào đó thông qua thực tế nghề nghiệp. Quan tâm tới cách thức mà người học vận dụng những điều được học để giải quyết các nhiệm vụ, yêu cầu công việc từ thực tiễn.

Đặc điểm của cách tiếp cận năng lực trong quá trình đào tạo:

Chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực chú trọng tới chuẩn đầu ra – người học phải có năng lực vận dụng các kiến thức, kỹ năng, thái độ được học để giải quyết và hoàn thành các nhiệm vụ, yêu cầu thực tiễn của lĩnh vực nghề nghiệp.

Chuẩn đầu ra là cơ sở định hình mục tiêu của chương trình đào tạo; đồng thời, cũng là lời khẳng định về những gì mà một sinh viên cần biết, hiểu và có khả năng làm được sau khi kết thúc chương trình học tập, là cơ sở cho việc xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo của nhà trường.

Có thể thấy, giữa mục tiêu đào tạo và chuẩn đầu ra có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo được xác định trên cơ sở mục tiêu cụ thể của chương trình đào tạo. Mục tiêu cụ thể của chương trình đào tạo phải được hiện thực hóa qua hệ thống chuẩn đầu ra của chương trình. Muốn xây dựng được hệ thống chuẩn đầu ra phải thực hiện quá trình liệt kê các công việc chính mà người học phải biết và làm được sau khi tốt nghiệp, đáp ứng nhu cầu nhân lực trong hoàn cảnh thực tiễn xã hội [làm được gì? cụ thể thành các chuẩn]; từ đó viết lại thành mục tiêu đào tạo theo các chuẩn đã được rút ra.

Để thực hiện được loại hình đào tạo này trước nhất cơ sở đào tạo phải tiến hành khảo sát, phân tích nhu cầu thị trường lao động để xây dựng nên hồ sơ năng lực nghề nghiệp – chuẩn đầu ra cho người học; từ đó làm cơ sở xây dựng chương trình đào tạo, thiết kế mục tiêu học tập, lựa chọn nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập. Đảm bảo toàn bộ quá trình đào tạo phải là quá trình hình thành năng lực để người học thực hiện được các yêu cầu của nghề nghiệp tương lai; giúp người học đủ khả năng để có thể tham gia vào thị trường lao động ngay trong và sau khi kết thúc khóa học.

2. Đặc trưng của chương trình giáo dục đại học theo định hướng ứng dụng

Chương trình đào tạo theo định hướng ứng dụng [tiếp cận năng lực] có mối quan hệ hữu cơ, gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo, người học với người sử dụng lao động; không ngừng biến đổi theo thời gian và có những đặc trưng cơ bản sau:

Chương trình đào tạo mở và dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội: dựa trên nhu cầu của thị trường lao động; đáp ứng sự thay đổi trong đời sống xã hội; định hướng thị trường lao động; định hướng theo sự thay đổi trong lĩnh vực nghề nghiệp; định hướng dựa theo vị trí công việc trong môi trường làm việc cụ thể.

Xác định phẩm chất nghề nghiệp của người học rõ ràng: [1] Kiến thức rộng trong lĩnh vực nghề nghiệp: có kiến thức tiên tiến nhất về khoa học của ngành để độc lập thực hiện các công việc trong môi trường lao động. [2] Khả năng thích nghi: có khả năng vận dụng đa dạng, linh hoạt, đồng thời các kiến thức, kỹ năng, thái độ để xử lý các tình huống nghề nghiệp. [3] Khả năng ứng dụng vào thực tiễn: có khả năng ứng dụng các lý thuyết, kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. [4] Khả năng chuyển giao: ứng dụng kiến thức và kỹ năng trong các tình huống nghề nghiệp. [5] Khả năng sáng tạo và linh hoạt: có khả năng sử dụng các chiến lược phù hợp để giải quyết các vấn đề gặp phải trong lĩnh vực nghề nghiệp. [6] Khả năng giải quyết vấn đề: có khả năng xác định, phân tích và đề xuất giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề phúc tạp trong các tình huống nghề nghiệp. [7] Được đào tạo để có các kỹ năng mềm như: kỹ năng lập kế hoạch, kỹ năng quản lý, kỹ năng giao tiếp xã hội, thể hiện năng lực tiên phong trong lĩnh vực chuyên môn. [8] Khả năng tự thể hiện tư duy và hành động, làm việc một cách có tổ chức. [9] Có tinh thần trách nhiệm với xã hội và sẵn sàng thay đổi khi cần thiết. [10] Có khả năng học tập suốt đời, biết cách cập nhật và mở mang hiểu biết vì sự tiến bộ của bản thân và xã hội.

Có sự tham gia của thị trường lao động vào quá trình đào tạo: các đơn vị sử dụng lao động tham gia vào quá trình đào tạo của nhà trường thông qua các hoạt động như tài trợ kinh phí, nhận sinh viên thực tập tại cơ sở, tham gia thỉnh giảng, hướng dẫn sinh viên thực tập nghề nghiệp, thực tập tốt nghiệp, đánh giá kết quả học tập của sinh viên…

Phương pháp học dựa vào năng lực: năng lực của người học là khả năng làm được việc theo mong đợi của người tuyển dụng trên cơ sở vận dụng tốt, hiệu quả các kiến thức, kỹ năng, thái độ của quá trình đào tạo. Phương pháp học dựa vào năng lực tập trung vào những gì người học có thể làm được sau khi được đào tạo. Phương pháp học này kết hợp đồng thời kiến thức, kỹ năng, thái độ vào trong các bài tập lớn; học tập thông qua làm việc; để sinh viên tự làm việc; trao đổi thông tin, tương tác đa chiều.

Kết hợp các phương pháp sư phạm: các học phần thiết kế theo dạng modul – giải quyết trọn vẹn một năng lực; người dạy phải sử dụng nhiều phương pháp linh hoạt để giúp người học hình thành các kỹ năng theo yêu cầu từng năng lực nghề nghiệp cụ thể. Các modul có thể được học tập tại các môi trường, bối cảnh khác nhau để giúp sinh viên trải nghiệm các tình huống nghề nghiệp thực và thực hành kĩ năng. Thường áp dụng phương pháp học tập dựa vào đồ án [hay còn được gọi là dự án], thực tập nghề nghiệp và nghiên cứu ứng dụng.

Đánh giá kết quả học tập của người học dựa vào năng lực: phương pháp đánh giá bằng thu thập các minh chứng thể hiện quá trình hình thành năng lực và kết quả cuối cùng mà người học đạt được khi kết thúc modul. Người đánh giá cũng có thể là chuyên gia từ thị trường lao động, sinh viên [phương pháp đánh giá chéo]. Sự tham gia của “thế giới nghề nghiệp” vào việc đánh giá kết quả học tập của người học là rất quan trọng trong việc đào tạo theo phương pháp đồ án, thực tập nghề nghiệp, thực tập tốt nghiệp, nghiên cứu ứng dụng…

Hướng vào “Người học là trung tâm”: tập trung vào nhu cầu, khả năng, lợi ích và phong cách học tập của người học, giảng viên được coi là người thúc đẩy quá trình học tập. Cách tiếp cận này đòi hỏi: [1] người học phải chủ động, tự chịu trách nhiệm đối với việc học tập của riêng mình; [2] người dạy phải có năng lực truyền thụ kiến thức, giỏi chuyên môn và các phẩm chất nghề nghiệp khác như kỹ năng giao tiếp, truyền thông, tư vấn, giám sát, tổ chức, lập kế hoạch, thiết kế môi trường học tập đa dạng, cởi mở để thúc đẩy và hỗ trợ hiệu quả quá trình học tập của người học.

3. Một số ưu điểm, hạn chế và khuyến nghị đối với chương trình đào tạo hiện nay của Trường Đại học Văn hóa TP.HCM

Qua hơn 40 năm hình thành và phát triển, Trường Đại học Văn hóa TP.HCM đã áp dụng hầu hết các kiểu tiếp cận phát triển chương trình trên. Đặc biệt từ sau 2015 tới nay, nhà trường xác định rõ ràng và mạnh dạn hơn, khẳng định quan điểm đào tạo theo định hướng ứng dụng để xây dựng và phát triển chương trình đào tạo. Với quan điểm đào tạo theo định hướng ứng dụng và cách tiếp cận năng lực, chương trình đào tạo của Trường Đại học Văn hóa TP.HCM hiện nay có những ưu điểm và hạn chế sau:

3.1. Ưu điểm

– Người học được trang bị có hệ thống, chọn lọc các lý thuyết cốt lõi, tiêu biểu, sát với kiến thức ngành và liên ngành. Người học không phải học lý thuyết suông mà được dạy cách tư duy để ứng dụng, vận dụng các lý thuyết, kết quả nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm ứng dụng vào thực tiễn. Thời lượng giờ học thực hành, thực tập nhiều.

– Hệ thống vị trí việc làm được xác định cụ thể, rõ ràng thông qua hệ thống chuẩn đầu ra giúp người học dễ dàng nhận biết được sau quá trình học mình có thể biết và làm được việc gì, làm việc ở đâu, thị trường lao động cho vị trí việc làm đó như thế nào [khu vực tư nhân và nhà nước].

– Hình dung được các mức độ yêu cầu năng lực công việc như: yêu cầu về kiến thức, yêu cầu về kỹ năng và yêu cầu về thái độ, sức khỏe mà xã hội đòi hỏi đối với từng loại nghề nghiệp cụ thể.

– Người học có thể học tập theo điều kiện, hoàn cảnh, khả năng cá nhân; sao cho đảm bảo thông thạo, đầy đủ các yêu cầu năng lực – chuẩn đầu ra; có thể học vượt và kết thúc sớm khóa học.

– Quá trình đào tạo chú trọng hình thành năng lực cho người học [các công việc, nhiệm vụ chuyên môn của nghề] theo các chuẩn mực, tiêu chuẩn hành nghề. Tiếp cận sớm với các học phần chuyên ngành ngay từ năm thứ nhất. Sớm tiếp cận với việc thực hành, thực tập tại các cơ sở liên quan đến lĩnh vực đang học.

– Sử dụng linh hoạt, kết hợp đa dạng phương pháp dạy học. Đặc biệt sử dụng phương pháp dự án trong quá trình dạy và học; khuyến khích sự năng động, sáng tạo và tính chủ động của người học để tạo ra sản phẩm cụ thể đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội. Thi hết học phần theo kiểu sản xuất sản phẩm thực tế theo đơn đặt hàng của xã hội.

– Kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết với thực hành, bám sát yêu cầu của thị trường lao động. Đảm bảo người học “vững lý thuyết, giỏi thực hành, rành thực tiễn”.

– Liên kết rộng và sâu với các cơ quan, doanh nghiệp để tạo điều kiện cho người học được thực hành, thực tập nghề nghiệp đúng chuyên môn và giao lưu học tập với những chuyên gia, nhà thực tiễn giàu kinh nghiệm và kiến thức. Tạo điều kiện cho nhà thực tiễn, nhà sử dụng lao động tham gia vào quá trình đào tạo cùng nhà trường.

– Thường xuyên được tham gia vào các hoạt động văn hóa xã hội, phục vụ cộng đồng, phong trào tình nguyện theo các chương trình, dự án của trường, khoa, lớp và các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức nghề nghiệp.

– Đảm bảo học tập trong đa dạng môi trường, bối cảnh với đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học, ăn, ở và sinh hoạt.

– Bằng cấp của người học được thể hiện đầy đủ nội dung và kết quả học tập theo chương trình đào tạo, thuận lợi trong tìm việc, dễ dàng học tiếp ở các bậc học cao hơn.

3.2. Hạn chế

– Quá trình xây dựng chương trình đào tạo chưa tiếp cận rộng và sâu với thị trường lao động để chuẩn hóa “hồ sơ năng lực” làm cơ sở xây dựng các chuẩn đầu ra và thiết lập chắc chắn, khoa học các mục tiêu cụ thể của ngành đào tạo.

– Hệ thống lý thuyết, cơ sở lý luận nền tảng của một số chương trình đào tạo/ngành đào tạo chưa được xác lập chắc chắn, đúng mực. Một số học phần/ modul thiếu nền tảng lý thuyết, lý luận; thiếu phương pháp tư duy ứng dụng; lý thuyết đứt rời với ứng dụng vào thực tiễn hoặc thuần túy chỉ là kỹ năng thực hành nghề nghiệp.

– Phương pháp thiết kế chương trình/ học phần, modul giảng dạy còn rời rạc, chưa thống nhất, chưa đồng bộ trong cùng một ngành đào tạo và giữa các ngành đào tạo trong cùng một nhóm ngành, các ngành trong trường dẫn đến tính liên kết, thuận tiện chưa cao cho sự lựa chọn của người học.

– Phương pháp giảng dạy, đánh giá kết quả học tập chưa đổi mới, một số chưa phù hợp, chưa đáp ứng kịp với yêu cầu của đào tạo theo định hướng ứng dụng. Chưa thực hiện tốt, chưa đồng bộ trong quan điểm tiếp cận “Người học là trung tâm” trong quá trình đào tạo. Chưa thực hiện được đầy đủ vai trò, chức năng và yêu cầu của người giảng viên dạy theo phương pháp định hướng ứng dụng.

– Mối quan hệ gắn kết, làm việc với thị trường lao động, các đối tác tuyển dụng, sử dụng lao động sau đào tạo của trường chưa nhiều, chưa sâu và chưa bền vững.

3.3. Khuyến nghị

– Tiếp tục khẳng định đào tạo theo định hướng ứng dụng [tiếp cận năng lực] trong thời gian tới. Kế thừa và phát huy kinh nghiệm của quá trình đào tạo nghiệp vụ văn hóa [1976], lên bậc cao đẳng mạnh về dạy thực hành nghiệp vụ văn hóa [1995], việc tiếp tục phát triển đào tạo đại học [2005] theo định hướng ứng dụng sẽ là một lợi thế lớn đối với trường Đại học Văn hóa TP.HCM.

– Thường xuyên khảo sát, phân tích nhu cầu xã hội, tiếp cận với đối tượng sử dụng nguồn nhân lực sau đào tạo của trường để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung mục tiêu, chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo; xây dựng hồ sơ năng lực người học đảm bảo tính khoa học và bám sát thị trường lao động. Tăng cường sự tham gia của các lực lượng xã hội – người sử dụng lao động, chuyên gia thực tiễn vào quá trình đào tạo của nhà trường. Năng động mở thêm chuyên ngành/ ngành đào tạo mới phù hợp với nhu cầu thực tiễn xã hội.

– Đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ giảng viên về chuyên môn, ngoại ngữ và phương pháp soạn bài, giảng dạy, đánh giá theo đúng chuẩn của phương pháp dạy học ứng dụng [tiếp cận năng lực].

– Tích cực khai thác sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất hiện có của trường; tăng cường mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đối tác bên ngoài nhà trường [trong và ngoài nước] nhằm đa dạng hóa môi trường, bối cảnh dạy và học.

– Tiến tới mở rộng khảo sát, hợp tác, liên kết đào tạo để vươn lên thế chủ động, định hướng thị trường nguồn nhân lực văn hóa. Không dừng lại ở việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hiện tại mà đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể dẫn đầu, đổi mới và hướng hoạt động văn hóa theo những xu hướng mới, tiệm cận với sự phát triển văn hóa, công nghiệp văn hóa ở các nước phát triển.

Tạm kết: Chương trình đào tạo của Trường Đại học Văn hóa TP.HCM hiện nay xây dựng theo định hướng ứng dụng trên cơ sở tiếp cận năng lực; chuẩn đầu ra lấy người học làm trung tâm, nhấn mạnh đến khả năng người học làm được việc gì sau khi hoàn thành khóa học nhờ sự vận dụng các kiến thức, kỹ năng và thái độ trong quá trình học. Các mục tiêu trong chương trình phần nhiều đã đáp ứng được các tiêu chuẩn đầu ra của người học theo chuẩn quốc gia. Mặc dù còn một số hạn chế, song qua Báo cáo tự đánh giá cơ sở giáo dục 2018[3] của trường, cho thấy có hơn 80% sinh viên sau khi tốt nghiệp đã tìm được việc làm phù hợp, hơn 85% hài lòng với chất lượng đào tạo của trường, hơn 80% sinh viên cơ bản đáp ứng được yêu cầu công việc sau khi tốt nghiệp… Những kết quả cơ bản đó đã góp phần quan trọng cho nhà trường giữ vững ổn định về chỉ tiêu tuyển sinh hàng năm và đạt yêu cầu về kiểm định chất lượng giáo dục trong năm 2019, hướng tới chính thức nhận quyết định trường đạt chuẩn chất lượng giáo dục quốc gia vào năm 2020./.

Trịnh Đăng Khoa

TÀI LIỆU THAM KHẢO, CHÚ THÍCH VÀ TRÍCH DẪN

  1. Bộ GD&ĐT [2006], Phát triển chương trình đào tạo đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng [Dự án phát triển giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng [POHE] ở Việt Nam giai đoạn II, của], Nxb. Đại học Sư phạm.
  2. Bộ GD&ĐT [2015], Thông tư số: 07/2015/TT-BGDĐT, ngày 16 tháng 4 năm 2015 về Ban hành Quy định về khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học và quy trình xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.
  3. Bộ GD&ĐT [2017], Thông tư số: 22/2017/TT-BGDĐT, ngày 06 tháng 9 năm 2017 về Ban hành quy định, điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học.
  4. Chính Phủ [2005], Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP, ngày 02/11/2005 về Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2005-2020.
  5. Chính Phủ [2015], Nghị định số 73/2015/NĐ-CP, ngày 08 tháng 9 năm 2015 về Quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở giáo dục đại học.
  6. Chính Phủ [2019], Nghị định số 99/2019/NĐ-CP, ngày 30 tháng 12 năm 2019 về Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học.
  7. Nguyễn Mạnh Cường [2019], “Tổ chức đào tạo định hướng nghề nghiệp, ứng dụng – từ lý thuyết đến thực tiễn”, bài đăng tại //nivet.org.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/hoat-dong-khoa-hoc/item/1059-to-chuc-dao-tao-dinh-huong-nghe-nghiep-ung-dung-tu-ly-thuyet-den-thuc-tien, ngày cập nhật 18/02/2020.
  8. Đảng Cộng Sản Việt Nam [2013], Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo.
  9. Quốc Hội Nước Cộng Hòa – Xã Hội – Chủ Nghĩa – Việt Nam [2018], Luật giáo dục đại học số 42/VBHN-VPQH.
  10. Quốc Hội Nước Cộng Hòa – Xã Hội – Chủ Nghĩa – Việt Nam [2019], Luật giáo dục số 43/2019/QH14.
  11. Trường Đại học Văn hóa TP.HCM [2018], Báo cáo tự đánh giá cơ sở giáo dục – Theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo [giai đoạn 2014 – 2018].

[1] Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam [PAPI] là sản phẩm của hoạt động hợp tác nghiên cứu giữa Trung tâm Nghiên cứu Phát triển-Hỗ trợ Cộng đồng [CECODES] thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học – Kỹ thuật Việt Nam và Chương trình Phát triển Liên Hợp quốc [UNDP] tại Việt Nam từ năm 2009 cho tới nay, cùng với sự hỗ trợ của các đối tác trong suốt quá trình triển khai thực hiện nghiên cứu, gồm Trung tâm Công tác lý luận và Tạp chí Mặt trận thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [từ năm 2009-2012], Ban Dân nguyện thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội [trong năm 2012], và Trung tâm Bồi dưỡng cán bộ và Nghiên cứu khoa học Mặt trận Tổ quốc Việt Nam [từ năm 2013]. Nội dung đánh giá của PAPI dựa trên ba quá trình có tác động lẫn nhau, đó là: xây dựng chính sách, thực thi chính sách và giám sát việc cung ứng các dịch vụ công. Các trục nội dung được được thiết kế đặc biệt cho bối cảnh Việt Nam cả tầm quốc gia và cấp địa phương. PAPI là công cụ giám sát thực thi chính sách, được xây dựng trên triết lý coi người dân như “người sử dụng [hay “khách hàng”] của cơ quan công quyền [hay “bên cung ứng dịch vụ”], có đủ năng lực giám sát và đánh giá tính hiệu quả của quản trị và hành chính công ở địa phương.

[2] Bộ GD&ĐT [2006], Phát triển chương trình đào tạo đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng [Dự án phát triển giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp ứng dụng [POHE] ở Việt Nam giai đoạn II, của], Nxb. Đại học Sư phạm.

[3] Trường Đại học Văn hóa TP.HCM [2018], Báo cáo tự đánh giá cơ sở giáo dục – Theo tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơ sở giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo [giai đoạn 2014 – 2018].

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề