Bao nhiêu lần nhắc nợ mới bị ngân hàng kiện năm 2024

Điểm đ Khoản 7 Điều 1 Thông tư số 18/2019/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 43/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định cho vay tiêu dùng của công ty tài chính quy định như sau:

đ) Biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ phù hợp với đặc thù của khách hàng, quy định của pháp luật và không bao gồm biện pháp đe dọa đối với khách hàng, trong đó số lần nhắc nợ tối đa 5 (năm) lần/1 (một) ngày, hình thức nhắc nợ, thời gian nhắc nợ do các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay tiêu dùng nhưng phải trong khoảng thời gian từ 7 (bảy) giờ đến 21 (hai mươi mốt) giờ; không nhắc nợ, đòi nợ, gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức, cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ cho công ty tài chính, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật;”.

Như vậy, công ty tài chính chỉ được nhắc nợ tối đa 5 (năm) lần/1 (một) ngày theo hình thức, thời gian do các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay tiêu dùng.

Tư vấn pháp luật

Hãy liên hệ tổng đài tư vấn pháp luật miễn phí 19008088 - gọi đường dây nóng: 0979310518; 0961360559 để nhận được câu trả lời nhanh chóng, kịp thời hoặc gửi email cho chúng tôi: [email protected] hoặc đến số 6 Phạm Văn Bạch, Hà Nội và 198 Nguyễn Thị Minh Khai, P6, Q3, TPHCM để được Luật sư tư vấn trực tiếp vào các ngày thứ Ba, thứ Sáu hàng tuần. Chuyên mục được thực hiện với sự hỗ trợ từ Công ty Luật TNHH YouMe.

Ông A vay của Ngân hàng 01 tỷ đồng, thời hạn vay 01 tháng kể từ ngày 02-01-2017, lãi suất 2% tháng. Sau thời hạn 01 tháng ông A không trả được nợ gốc và lãi. Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày 03-02-2017 đến ngày 03-02-2020, Ngân hàng không khởi kiện yêu cầu ông A trả nợ. Đến nay, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả nợ thì ông A có được quyền yêu cầu áp dụng quy định về thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không?

Theo quy định Điều 429 của BLDS năm 2015 thì “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.

Căn cứ quy định nêu trên thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đã hết. Tuy nhiên, theo quy định khoản 2 Điều 155 của BLDS năm 2015 thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong trường hợp "yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác". Do đó, Ngân hàng có thể khởi kiện ông A yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc) và Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc hay không.

Với nội dung này đã đặt tình huống Ngân hàng có quyền khởi kiện đòi lại tài sản (nợ gốc), Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án với quan hệ tranh chấp “Đòi lại tài sản (tiền nợ gốc ông A vay)”, tất nhiên trong quan hệ tranh chấp đòi lại tài sản không đặt ra yêu cầu về áp dụng thời hiệu khởi kiện.

Vấn đề đặt ra, trường hợp Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả cả tiền nợ gốc và lãi suất theo hợp đồng thì Tòa án giải quyết như thế nào?

Quan điểm thứ nhất: Đối với Ngân hàng khởi kiện ông A yêu cầu trả nợ vay theo Hợp đồng tín dụng cả tiền gốc và lãi suất thì Tòa án thụ lý quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng tín dụng. Quá trình thụ lý, giải quyết xem xét tính hợp pháp của hợp đồng tín dụng theo quy định pháp luật và Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của BLTTDS. Trường hợp bị đơn - ông A yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện thì Tòa án giải quyết theo hướng xác định lại quan hệ tranh chấp “Đòi lại tài sản”, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Ngân hàng đối với phần lãi suất trên số tiền nợ gốc theo Hợp đồng tín dụng.

Quan điểm thứ hai: Khác với quan điểm thứ nhất, cho rằng không ngẫu nhiên mà TANDTC lại có thêm giải đáp ở câu 3 phần III về Dân sự: Đối với các loại hợp đồng dân sự: … hợp đồng vay tài sản của các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 của BLDS năm 2015 và Điều 184 của BLTTDS. Trong nội dung giải đáp câu 3, TANDTC đã khẳng định nội dung giải đáp câu 2: “Đối với vụ án Ngân hàng cho vay thì Ngân hàng chỉ khởi kiện yêu cầu đòi lại tài sản (nợ gốc), một khi thời hiệu khởi kiện đã hết đối với Hợp đồng tín dụng và Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án tranh chấp đòi lại tài sản mà không phụ thuộc vào việc các bên có yêu cầu áp dụng hay không”. Như vậy, trường hợp Ngân hàng khởi kiện yêu cầu trả nợ cả tiền gốc và lãi suất theo Hợp đồng tín dụng, mà Tòa án thụ lý quan hệ tranh chấp là Tranh chấp hợp đồng tín dụng, quá trình giải quyết xem xét đã hết thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng thì Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 217 của BLTTDS.

Quan điểm thứ ba: Lập luận quan điểm thứ hai có phần đoán định hướng dẫn giải đáp của TANDTC và căn cứ đình chỉ theo điểm điểm h khoản 1 Điều 217 của BLTTDS là chưa vững chắc. Trường hợp Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông A trả cả tiền nợ gốc và lãi suất theo hợp đồng, đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định Điều 429 của BLDS năm 2015 để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”, và Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của BLTTDS, nghĩa là khi và chỉ khi đối với vụ án trên bị đơn A yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc thì Tòa án phải đình chỉ đối với vụ án quan hệ tranh chấp là hợp đồng tín dụng, với lý do bị đơn có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết. Như vậy, khác với quan điểm thứ nhất, Tòa án không thay đổi quan hệ tranh chấp thành “Đòi lại tài sản”. Theo đó, Ngân hàng cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm đối với phần nợ gốc sẽ khởi kiện thành vụ án khác Tòa án tiến hành thụ lý giải quyết. Đây cũng chính là quan điểm tác giả.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp quý độc giả.


3. Đối với các loại hợp đồng dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản của các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì có áp dụng thời hiệu khởi kiện như quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 không?

Theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:

...2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai....”

Theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: "Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì: "Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc”.

Do vậy, đối với các tranh chấp về quyền sở hữu, đòi lại tài sản thì Tòa án không áp dụng thời hiệu không phụ thuộc vào việc một bên hoặc các bên có hay không có yêu cầu áp dụng thời hiệu. Đối với các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự như hợp đồng thuê nhà, thuê tài sản, hợp đồng vay tài sản giữa các cá nhân, tập thể với nhau (không phải là hợp đồng tín dụng) thì thời hiệu khởi kiện áp dụng theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 184 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nợ quá hạn ngân hàng bao lâu thì bị khởi kiện?

Với các khoản nợ quá hạn, khách hàng phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi của mình theo luật ngân hàng Việt Nam. Căn cứ theo Thông tư 11/2021/TT-NHNN, những khoản nợ từ 2 triệu đồng trở lên và quá hạn trong vòng 36 tháng là ngân hàng có thể lập hồ sơ khởi kiện.

Nợ xấu bao lâu thì bị kiện ra tòa?

Như vậy thì, nếu cá nhân và tổ chức nợ quá hạn ngân hàng trong vòng 3 năm kể từ ngày đến hạn thanh toán mà không trả nợ, cá nhân và tổ chức đi vay sẽ bị ngân hàng khởi kiện để đảm bảo quyền lợi hợp pháp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng khác.

Nợ quá hạn bao lâu thì bị nợ xấu?

Như vậy nợ xấu là khoản nợ quá hạn từ 91 ngày trở lên, và có cơ cấu lại thời gian trả nợ. Ngoài ra các khoản nợ khác quy định tại nợ nhóm 3, nhóm 4, nhóm 5 cũng được xem là nợ xấu.

Nhóm nợ 4 thì có ngày trễ hạn bao nhiêu?

Nợ xấu nhóm 4 hay còn gọi là nợ nghi ngờ: Là khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; Nợ xấu nhóm 5 hay còn gọi là nợ có khả năng mất vốn: Là khoản nợ quá hạn trên 360 ngày. Nợ xấu là các khoản nợ khó đòi khi người vay không thể trả nợ khi đến hạn phải thanh toán như đã cam kết trong hợp đồng cho vay.