Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của mọi quốc gia

Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh trong bối cảnh thế giới và khu vực hiện nay, phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của mọi quốc gia. 

Chương trình nghị sự 2030 của LHQ bao trùm mọi lĩnh vực, như xóa đói, giảm nghèo, y tế, giáo dục, là cơ hội để các nhà lập pháp thể hiện cam kết của mình trong việc góp phần thực hiện mục tiêu cải thiện đời sống của người dân, chấm dứt đói nghèo, bảo vệ hành tinh và tất cả mọi người được hưởng hòa bình và thịnh vượng.

Tuy nhiên, từ năm 2020, đại dịch COVID-19 gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, tính mạng của người dân và các mặt của đời sống kinh tế - xã hội ở nhiều quốc gia; bên cạnh đó, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, các vấn đề an ninh phi truyền thống nhất là biến đổi khí hậu, dịch bệnh ngày càng trở nên gay gắt làm gia tăng thách thức trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững trên toàn thế giới.

Theo ông Trần Thanh Mẫn, đối với Việt Nam, phát triển nhanh và bền vững được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm, là mục tiêu trong toàn bộ các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm sự phát triển hài hòa, ổn định, bền vững, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người dân.

Trong quá trình triển khai nhiệm vụ này, Quốc hội Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế để phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, góp phần tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc, khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.

Để tạo nguồn lực phục vụ triển khai các mục tiêu phát triển bền vững, Quốc hội đã xem xét, phê duyệt phân bổ ngân sách đầu tư và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội qua từng giai đoạn 2016-2021 và 2021-2025 trong đó lồng ghép thực hiện yêu cầu phát triển bền vững.

Quốc hội đã phê duyệt chủ trương đầu tư 3 Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025 bao gồm: Giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững; Xây dựng nông thôn mới và Phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Bên cạnh đó, Quốc hội tăng cường giám sát thực hiện pháp luật về phát triển khoa học công nghệ, việc thực hiện Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020; quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường nhằm thúc đẩy thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam.

Quốc hội Việt Nam cũng đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tăng cường trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm; tham gia chủ động và tích cực tại các cơ chế hợp tác nghị viện đa phương và khu vực nhằm thúc đẩy thực hiện các cam kết về phát triển bền vững và biến đổi khí hậu; đóng góp các đề xuất tăng cường hành động của Quốc hội các nước trong lĩnh vực phát triển bền vững.

Vai trò của Quốc hội còn được thể hiện qua việc đại diện cho người dân, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người dân, tuyên truyền thông tin để người dân nâng cao hiểu biết về các lợi ích của việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, qua đó huy động nguồn lực xã hội và sự tham gia của người dân, giám sát quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững.

Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn đề nghị hội nghị tập trung thảo luận một số nội dung trọng tâm như: Đánh giá cập nhật tổng quan tình hình thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và tại Việt Nam, trong đó nhận diện những thuận lợi, thách thức đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

Trao đổi các giải pháp tăng cường hơn nữa vai trò của Quốc hội về chức năng lập pháp, giám sát thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, lồng ghép các mục tiêu này vào hoạt động của Quốc hội. 

Chia sẻ kinh nghiệm trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững; huy động nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực ngoài nước, tăng cường sự tham gia của các cơ quan, đại biểu dân cử, các tổ chức trong thúc đẩy thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững tại Việt Nam.

Nguyễn Hoàng


Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Quan điểm, chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam

Trong xu thế hội nhập, đổi mới, phát triển mạnh mẽ Việt Nam đã lựa chọn chiến lược phát triển đất nước theo hướng nhanh và bền vững để thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh". Trong quá trình hội nhập, phát triển, chủ trương, quan điểm về phát triển công bằng, bền vững được Việt Nam không ngừng bổ sung và hoàn thiện.

Việt Nam tích cực thực hiện các cam kết quốc tế gắn với tăng trưởng xanh, phát triển bền vững

Chiến lược tài chính đến năm 2030: Xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững

Nền tảng phát triển bền vững từ kinh tế xanh ở Việt Nam

Phát triển các làng nghề mới đảm bảo thân thiện với môi trường và phát triển bền vững

Quan điểm phát triển nhanh và bền vững

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc Đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Những nội dung mới được khẳng định: "Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyên đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số, coi đây là nhân tố quyết định để nâng cao năng suất lao động, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền; phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu...

Nhận thức, quan điểm về phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam vừa có sự kế thừa nhận thức và xu hướng phát triển chung của thế giới vừa có sự vận dụng, bổ sung, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Theo đó, trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam xác định:

Một là, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia. Việc xây dựng, thực hiện các chiến lược, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.

Hai là, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mỗi người dân. Huy động mọi nguồn lực xã hội; tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp và các bên liên quan nhằm đảm bảo thực hiện thành công các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030.

Ba là, con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững. Đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước.

Bốn là, tạo điều kiện để mọi người và mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để phát triển, được tiếp cận những nguồn lực chung và được tham gia, đóng góp và hưởng lợi, tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai sau. Không để ai bị bỏ lại phía sau, tiếp cận những đối tượng khó tiếp cận nhất trước, bao gồm trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người nghèo, người khuyết tật, đồng bào vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng biên giới, hải đảo và những đối tượng dễ bị tổn thương khác.

Năm là, khoa học và công nghệ, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số quốc gia sẽ là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững đất nước. Công nghệ hiện đại, sạch và

Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo điều kiện, nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội.

Chiến lược phát triển bền vững đến năm 2030

Việt Nam xây dựng Chiến lược phát triển giai đoạn 2021-2030 trong bối cảnh quốc tế, khu vực có nhiều khó khăn, biến động... Tuy nhiên, Việt Nam vẫn cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, cụ thể:

Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế.

Việt Nam phấn đấu, trong giai đoạn 2020-2030, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình tăng từ 5-6%/năm, GDP bình quân đầu người duy trì mức 4-4,45%/ năm; tốc độ tăng năng suất lao động duy trì mức tăng 5% hàng năm.

Mục tiêu đến năm 2030, tăng gấp 1,5 lần năng suất lao động trong nông nghiệp và thu nhập của lao động nông nghiệp với lộ trình đặt ra là thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 43 triệu (2020); 60 triệu (2025) và 90 triệu (2030).

Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP trên 85%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội bình quân 5 năm bằng khoảng 32 - 34% GDP. Bội chi ngân sách nhà nước không quá 4% GDP. Yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp vào tăng trưởng khoảng 25 - 30%. Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 - 1,5%/năm. Tỷ lệ đô thị hoá đến năm 2020 đạt 38 - 40%.

Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội.

Tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 35 - 40% (2020). Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 65 - 70%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 25 - 26%. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Mục tiêu có 10 bác sĩ và trên 26 giường bệnh trên 1 vạn dân. Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt trên 80% dân số. Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,3 - 1,5%/năm. Đến năm 2020 sẽ không còn hộ nghèo với mức thu nhập dưới 2 USD/ngày. Năm 2025 sẽ không còn tình trạng đói nghèo, chấm dứt nghèo đói ở mọi nơi.

Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường.

Xây dựng một nền kinh tế phi phát thải; Giảm phát thải khí nhà kính: 5% năm 2020; 25% năm 2030 và 45% năm 2050. Năm 2030 có thể đạt được các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Chống sa mạc hóa, phục hồi các vùng đất và đất bị thoái hóa, kể cả đất bị ảnh hưởng bởi sa mạc hóa, hạn hán và lũ lụt, và phấn đấu để đạt được một thế giới không thoái hóa đất. Phấn đấu đạt 95% dân cư thành thị, 90% dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh (2020) và 80 - 85% chất thải nguy hại, 95 - 100% chất thải y tế được xử lý. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 44 - 45%...

Để phát triển kinh tế nhanh và bền vững, Việt Nam còn nhiều việc phải làm, trong đó cần thúc đẩy hình thức đầu tư đối tác công tư, thu hút các nhà đầu tư mới để hướng tới phát triển bền vững.

Các dự án giao thông, cơ sở hạ tầng trong nhiều lĩnh vực, thậm chí các dịch vụ công... đều cần có sự hợp tác công tư để phát triển bền vững. Nguồn vốn cho xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam cần ít nhất 20 tỷ USD mỗi năm trong những năm tới.

Trong điều kiện nguồn vốn nhà nước hạn hẹp, trợ giúp phát triển chính thức (ODA) hạn chế, thì hình thức đầu tư đối tác công tư và huy động nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân sẽ đóng vai trò quan trọng.

Đối tác công tư không chỉ là sự chung tay giữa nhà nước và tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng mà cần được mở rộng ra các lĩnh vực cung ứng dịch vụ công và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp quan trọng có vai trò dẫn dắt nền kinh tế.

Việt Nam xác định tiếp tục đầu tư mạnh vào cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Chú trọng nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nghèo, vùng sâu, vùng xa, cả về thể lực và trí lực nhằm đạt mục tiêu thiên niên kỷ như đã cam kết về phát triển con người.

Ưu tiên phục vụ con người, phát huy cao nhất yếu tố con người trong mỗi chiến lược phát triển. Việt Nam đặt mục tiêu thuộc nhóm dẫn đầu các nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

In bài viết

tăng trưởng phát triển bền vững kinh tế phát triển nhanh

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

    Xử lý nợ gắn với tái cơ cấu doanh nghiệp được DATC thực hiện thế nào?

  • Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

    Hoàn thiện kế toán quản trị chi phí tại các doanh nghiệp thương mại

  • Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

    Vai trò của chính sách tài khóa phục vụ tăng trưởng kinh tế bền vững

Tin nổi bật

Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Chính phủ họp chuyên đề về xây dựng pháp luật và ổn định kinh tế vĩ mô

Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Hạn chế tối đa nhà đầu tư cá nhân “lách luật” mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ

Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Bộ Tài chính lấy sự hài lòng của tổ chức, cá nhân là thước đo hiệu quả giải quyết thủ tục hành chính

Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Hoàn thiện công tác chuẩn bị triển khai hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền

Chính sách phát triển bền vững của Việt Nam

Để quản lý an toàn, minh bạch tiền công đức, tài trợ