Communicative competence là gì

Thuật ngữ năng lực giao tiếp đề cập đến cả kiến ​​thức ngầm về một ngôn ngữ và khả năng sử dụng nó một cách hiệu quả. Nó còn được gọi là  năng lực giao tiếp và là chìa khóa để xã hội chấp nhận.

Khái niệm năng lực giao tiếp [một thuật ngữ được đặt ra bởi nhà ngôn ngữ học Dell Hymes vào năm 1972] đã vượt ra khỏi sự chống lại khái niệm năng lực ngôn ngữ do Noam Chomsky đưa ra . Hầu hết các học giả hiện nay coi năng lực ngôn ngữ là một bộ phận của năng lực giao tiếp.

"Tại sao có rất nhiều học giả, từ nhiều lĩnh vực, nghiên cứu năng lực giao tiếp trong nhiều bối cảnh quan hệ, thể chế và văn hóa như vậy? Linh cảm của chúng tôi là các học giả, cũng như các xã hội phương Tây đương đại, nơi hầu hết sinh sống và làm việc, đều chấp nhận rộng rãi những điều sau niềm tin ngầm: [a] trong bất kỳ tình huống nào, không phải tất cả những điều có thể nói và làm đều có năng lực như nhau; [b] thành công trong các mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp phụ thuộc không nhỏ vào năng lực giao tiếp; và [c] hầu hết mọi người thể hiện không đủ năng lực trong ít nhất một vài tình huống và một số ít hơn bị đánh giá là không đủ năng lực trong nhiều tình huống. "
[Wilson và Sabee]
"Cho đến nay, sự phát triển quan trọng nhất trong TESOL là sự nhấn mạnh vào phương pháp giao tiếp trong giảng dạy ngôn ngữ [Coste, 1976; Roulet, 1972; Widdowson, 1978]. Một điều mà mọi người chắc chắn là sự cần thiết của việc sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp mục đích trong lớp học. Do đó, mối quan tâm đến việc giảng dạy năng lực ngôn ngữ đã được mở rộng bao gồm năng lực giao tiếp , cách sử dụng ngôn ngữ phù hợp với xã hội và các phương pháp phản ánh sự thay đổi này từ hình thức sang chức năng. "
[Paulston]
"Sau đó, chúng ta phải tính đến thực tế là một đứa trẻ bình thường có được kiến ​​thức về các câu không chỉ về ngữ pháp mà còn phải phù hợp. Trẻ có được khả năng nói khi nào, khi nào không và nói về điều gì với ai. , khi nào, ở đâu, theo cách nào. Tóm lại, một đứa trẻ có thể hoàn thành một loạt các  hành vi lời nói , tham gia vào các sự kiện diễn thuyết và được những người khác đánh giá thành tích của chúng. Hơn nữa, năng lực này không thể thiếu với thái độ, giá trị , và các động cơ liên quan đến ngôn ngữ, các tính năng và cách sử dụng của nó, cũng như không thể thiếu năng lực và thái độ đối với mối quan hệ qua lại của ngôn ngữ với các quy tắc ứng xử giao tiếp khác. " [Hymes]

Trong "Cơ sở lý thuyết của các phương pháp giao tiếp để dạy và kiểm tra ngôn ngữ thứ hai" [ Ngôn ngữ học ứng dụng , 1980], Michael Canale và Merrill Swain đã xác định bốn thành phần sau của năng lực giao tiếp:

[i] Năng lực ngữ pháp bao gồm kiến ​​thức về âm vị học , chính tả , từ vựng , cấu tạo từ và đặt câu .
[ii] Năng lực xã hội học bao gồm kiến ​​thức về các quy tắc sử dụng văn hóa xã hội. Nó liên quan đến khả năng của người học để xử lý các cài đặt, chủ đề và chức năng giao tiếp ví dụ trong các bối cảnh xã hội học khác nhau. Ngoài ra, nó còn đề cập đến việc sử dụng các dạng ngữ pháp thích hợp cho các chức năng giao tiếp khác nhau trong các bối cảnh xã hội học khác nhau.
[iii] Năng lực diễn thuyếtliên quan đến việc người học làm chủ việc hiểu và tạo ra văn bản ở các chế độ nghe, nói, đọc và viết. Nó đề cập đến sự liên kết và mạch lạc trong các loại văn bản khác nhau.
[iv] Năng lực chiến lược đề cập đến các chiến lược bù đắp trong trường hợp khó khăn về ngữ pháp hoặc xã hội học hoặc diễn đạt, chẳng hạn như việc sử dụng các nguồn tham khảo, cách diễn đạt ngữ pháp và từ vựng, yêu cầu lặp lại, làm rõ, nói chậm hơn hoặc các vấn đề trong việc tiếp cận người lạ khi không chắc địa vị xã hội hoặc trong việc tìm kiếm các thiết bị gắn kết phù hợp. Nó cũng quan tâm đến các yếu tố hiệu suất như đối phó với sự phiền toái của tiếng ồn xung quanh hoặc sử dụng chất độn khoảng trống.
[Peterwagner]
  • Canale, Michael và Merrill Swain. “Cơ sở lý thuyết của các phương pháp giao tiếp để dạy và kiểm tra ngôn ngữ thứ hai.” Ngôn ngữ học ứng dụng , tôi, không. 1, 1 tháng 3 năm 1980, trang 1-47, doi: 10.1093 / applin / i.1.1.
  • Chomsky, Noam. Các khía cạnh của lý thuyết cú pháp . MIT, 1965.
  • Hymes, Dell H. “Mô hình Tương tác giữa Ngôn ngữ và Đời sống Xã hội.” Directions in Sociolinguistics: The Ethnography of Communication , được biên tập bởi John J. Gumperz và Dell Hymes, Wiley-Blackwell, 1991, trang 35-71.
  • Hymes, Dell H. “Về Năng lực Giao tiếp.” Ngôn ngữ xã hội học: Các bài đọc được chọn lọc , được biên tập bởi John Bernard Pride và Janet Holmes, Penguin, 1985, trang 269-293.
  • Paulston, Christina Bratt. Ngôn ngữ học và Năng lực Giao tiếp: Các chủ đề trong ESL . Các vấn đề đa ngôn ngữ, 1992.
  • Peterwagner, Reinhold. Vấn đề quan trọng với năng lực giao tiếp là gì?: Phân tích để khuyến khích giáo viên tiếng Anh đánh giá chính cơ sở của việc giảng dạy của họ . LIT Verlang, 2005.
  • Rickheit, Gert và Hans Strohner, biên tập viên. Handbook of Communication Competence: Sổ tay Ngôn ngữ học Ứng dụng . De Gruyter, 2010.
  • Wilson, Steven R. và Christina M. Sabee. “Giải thích năng lực giao tiếp như một thuật ngữ lý thuyết.” Sổ tay Kỹ năng Giao tiếp và Tương tác Xã hội , được biên tập bởi John O. Greene và Brant Raney Burleson, Lawrence Erlbaum Associates, 2003, trang 3-50.

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TIẾNG CỦA NGƯỜI HỌC DƯỚI ÁNH SÁNG LÝ

LUẬN NGÔN NGỮ HỌC HIỆN ĐẠI

TS. Phạm Hùng Linh

Khoa Tâm lý-Giáo dục, Đại học Thái Nguyên

Tóm tắt

Hiện nay, giáo dục nước ta đang được khuyến khích chuyển mạnh từ phương pháp

giáo dục chủ yếu trang bị kiến thức sang cách thức giáo dục để phát triển năng lực người

học. Tuy nhiên, năng lực là một phạm trù phức tạp, mang tính chuyên biệt tùy theo từng

lĩnh vực hoặc chuyên ngành. Nghiên cứu này tổng thuật phân tích những công trình

tiên phong và có ảnh hưởng lớn trên thế giới trong lĩnh vực giảng dạy ngôn ngữ về năng

lực tiếng của người học. Từ quan điểm thuần túy ngôn ngữ học của Chomsky đến những

hình năng lực tiếng toàn diện hơn chịu ảnh hưởng của ngôn ng học ứng dụng như

hình của Canale Swain hay Khung tham chiếu Châu Âu, tất cả, được nhà nghiên

cứu phân tích luận giải. Trên sở đó, tác gi đưa ra một số khuyến nghị cần thiết

cho việc phát triển năng lực tiếng của người học trong nhà trường Việt Nam hiện nay.

I. Dẫn nhập

Mục tiêu của bất cứ hệ thống giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhằm đào tạo ra

những con người có thể đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của xã hội. Trong bối cảnh toàn

cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, năng lực tiếng hay năng lực giao tiếp

được coi năng lực thiết yếu các h thống giáo dục phát triển trên thế giới nói

chung châu Á nói riêng, bao gồm: Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan,

Hồng Kông muốn trang b phát triển người học [Cheng, 2017]. Tương tự, Việt

Nam, Nghị quyết 29-TƯ Đảng năm 2013 đã xác định cần chuyển mạnh giáo dục trọng

tâm trang bị kiến thức sang giáo dục chú trọng phát huy năng lực người học, trong đó

năng lực tiếng. Tuy nhiên, khái niệm năng lực là một phạm trù phức tạp, có tính chuyên

biệt cho từng chuyên ngành, lĩnh vực. Trong lĩnh vực giảng dạy tiếng hiện nay Viêt

Nam, tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, cung cấp cho người học cấu trúc cú pháp và các từ vựng

cần thiết để người học có đủ kiến thức tiếng được coi là cách thức phổ biến để người học

đạt được năng lực tiếng. Tuy nhiên, trên thế giới, quan điểm này đã bị phê phán bởi nhiều

nhà ngôn ng học danh tiếng được thay thế bởi những hình năng lực tiếng hiệu

quả hơn. Nghiên cứu này của chúng tôi nhằm phân tích và thảo luận khái niệm năng lực

tiếng theo quản điểm ngôn ng học hiện đại 4 mô hình năng lực tiếng ảnh hưởng

nhất đến lĩnh vực dạy-học, xây dựng chương trình và đánh giá năng lực tiếng của người

học hiện nay trên thế giới. Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị cần thiết

cho giáo dục tiếng ở Việt Nam.

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

II.Năng lực tiếng và các mô hình năng lực tiếng

Thuật ngữ năng lực trong ngôn ng học gắn với tên tuổi của nhà ngữ học danh

tiếng Noam Chomsky. Xuất hiện lần đầu trong cuốn sách “Aspects of the Theory of

Syntax” [1965] đ giới thiệu về ngữ pháp tạo sinh, ng lực được Chomsky định nghĩa

như kiến thức ngôn ngữ của người nói-người nghe. Dựa trên cặp lưỡng phân ngôn ngữ -

lời nói của Saussure, Chomsky phân biệt năng lực [competence] thực thi

[performance]. Trong đó thực thi được xem như sự sử dụng ngôn ngữ trong những cảnh

huống chân thực, tự nhiên. Tuy nhiên, khái niệm ngôn ngữ được dùng để định nghĩa năng

lực của Chomsky được hiểu theo tinh thần của Humboldt [1827] như là năng lực sâu thể

hiện một hệ thống của các quá trình tạo sinh thay vì một hệ thống các đơn vị như quan

điểm của Saussure.

Cần chú ý rằng, trong tác phẩm kinh điển của mình, Chomsky đã sử dụng thuật

ngữ năng lực và thực thi với hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp năng lực

được dùng để chỉ kiến thức ngôn ngữ của người nói người nghe, vd: kiến thức ngữ

pháp, t vựng, ngữ âm; còn thực thi được dùng để chỉ sự sử dụng kiến thức đó trong

những cảnh huống giao tiếp thực sự ngoài đời:

vậy chúng tôi phân biệt giữa năng lực [kiến thức ngôn ngữ của người nói

người nghe] thực thi [sử dụng thực ngôn ngữ trong các tình huống cụ thể]...

Trong thực tế, thực thi không thể phản ánh trực tiếp năng lực. Một bản ghi của lời

nói tự nhiên sẽ cho thấy những lỗi sai khởi thoại, lệch chuẩn, thay đổi hướng

thoại khi cuộc thoại đang tiếp diễn v.v [Chomsky, 1965].

Theo nghĩa rộng, năng lực chỉ hệ thống ngôn ngữ một người bản ngữ lý tưởng

đã thụ đắc còn thực thi bao gồm các yếu tố tâm lý liên quan đến quá trình tạo lập tiếp

nhận ngôn ngữ, vd: chiến lược phân tích ngữ pháp tri nhận, các giới hạn trí nhớ v.v.

Quan niệm của Chomsky về năng lực và thực thi xuất phát từ quan điểm thuần túy

ngôn ngữ học. Chính vì vậy quan niệm này đã bị phê phán bởi các nhà ngôn ngữ học ứng

dụng và ngôn ngữ học xã hội như Campbell & Wales [1970] và Hymes [1972]. Theo các

nhà nghiên cứu này, thuật ngữ năng lực và thực thi của Chomsky đã không tính đến ảnh

hưởng của yếu tố khung cảnh ngoài ngôn ngữ lên ngữ nghĩa của phát ngôn được sử dụng

mặc dù ảnh hưởng của yếu tố này là rất quan trọng. Một đứa trẻ bình thường khi học các

câu thì nó không chỉ cần được trang bị kiến thức ngữ pháp của câu mà còn cần được học

việc sử dụng các câu đó cho phù hợp với khung cảnh như khi nào nói, khi nào không, nói

cái gì, với ai, khi nào, đâu và theo cách thức nào. Một câu yêu cầu như “Đưa kẹo đây”

là một câu đúng ngữ pháp. Tuy nhiên, rõ ràng, câu này không thể được một đứa bé lớp 3

nói với bố hay mẹ chỉ có thể dùng với đứa em đang học lớp 1 của nó. Do đó c

Campbell & Wales [1970] và Hymes [1972] đã đề xuất việc mở rộng khái niệm năng lực

của Chomsky với việc tích hợp hai thành tố năng lực ngữ pháp [kiến thức ngầm hiển

lộ về các quy tắc ngữ pháp] và năng lực khung cảnh hay năng lực ngôn ngữ xã hội [kiến

thức về các quy tắc sử dụng ngôn ngữ]. Năng lực này được họ gọi năng lực giao tiếp

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

[communicative competence] và phân biệt nó với thực thi giao tiếp [communicative

performance] được xem như sự hiện thực hóa của năng lực giao tiếp trong khung

cảnh chân thực.

Mô hình năng lực giao tiếp của Canale và Swain

Quan điểm về năng lực thực thi giao tiếp của Hymes được coi là tiếng nói tiêu

biểu của trường phái ngôn ngữ học xã hội. Quan điểm này, tuy nhiên, về sau đã bị Canale

& Swain [1980] chỉ ra hai hạn chế: 1] ít chú ý đến cách các phát ngôn đơn lẻ liên kết với

nhau cấp độ diễn ngôn; 2] không quan m đến sự thống hợp của các thành t khác

nhau thuộc năng lực giao tiếp. Chính vì vậy, Canale và Swain [1980] đã ủng hộ lý thuyết

thống hợp về năng lực giao tiếp được tiên phong bởi Allen [1975], Wilkins [1976],

Munby [1978], Stern [1978], Widdowson [1975, 1978]. Lý thuyết này xem năng lực giao

tiếp sự thống hợp của 1] kiến thức ngữ pháp bản; 2] kiến thức về cách ngôn ng

được sử dụng trong các khung cảnh xã hội khác nhau để thực các chức năng giao tiếp; 3]

kiến thức về cách các phát ngôn chức năng giao tiếp thể được kết hợp theo các

nguyên lý của diễn ngôn. Tuy nhiên, theo Canale Swain [1980] một trong những hạn

chế của các nhà nghiên cứu thuộc trường phái này là đã ít chú ý đến các chiến lược giao

tiếp mà người nói dùng đ điều khiển cuộc thoại, vd: cách thu hút sự chú ý người nghe,

cách để xưng với người l khi không vị trí hội của họ. Chính vậy Canale

Swain [1980] đã đề xuất một mô hình năng lực giao tiếp gồm có 3 thành tố như sau:

1] Năng lực ngữ pháp

Bao gồm kiến thức về các đơn vị từ vựng, quy tắc hình vị, cú pháp, ngữ nghĩa ngữ

pháp câu, và âm vị học

2] Năng lực ngôn ngữ xã hội

Bao gồm hai bộ quy tắc: Quy tắc sử dụng ngôn ngữ trong các khung cảnh văn hóa

xã hội khác nhau và quy tắc của diễn ngôn

3] Năng lực chiến lược

Năng lực này bao gồm các chiến lược giao tiếp bằng lời phi lời nhân vật

giao tiếp thể dùng để m chủ cuộc giao tiếp. Có hai loại chiến lược: 1] Chiến

lược liên quan chủ yếu đến năng lực ngữ pháp và chiến lược liên quan chủ yếu đến

năng lực ngôn ngữ xã hội.

Mô hình y đến năm 1983, đã được Canale phát triển thêm bằng cách tách năng

lực ngôn ngữ hội thành hai năng lực: 1] năng lực ngôn ngữ hội; 2] năng lực diễn

ngôn. Theo hình sửa đổi y [sơ đồ 1], năng lực ngôn ngữ hội là kiến thức về các

chuẩn tắc văn hóa xã hội của sự sử dụng ngôn ngữ, vd: sự sử dụng phù hợp của từ ngữ,

phép lịch sự, phong cách trong các cảnh huống giao tiếp còn năng lực diễn ngôn khả

năng kết hợp các cấu trúc ngôn ng vào các loại văn bản khác nhau như thơ, phát biểu

hội nghị.

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

[Sơ đồ 1]

Mặc dù mô hình năng lực giao tiếp của Canale và Swain có tầm ảnh hưởng lớn và

đã góp phần thay đổi cách dạy, thiết kế chương trình, và đánh giá năng lực ngôn ngữ của

người học theo trường phái giao tiếp. Từ đó, làm cho quá trình học và dạy ngôn ngữ trở

nên hiệu quả hơn rất nhiều. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu cũng chưa hoàn toàn nhất

trí mô hình này, điển hình là Schachter [1990], người đã nghi ngờ tính tương hợp của các

thành tố năng lực trong hình đặc biệt sự chia tách giữa năng lực diễn ngôn

năng lực ngôn ngữ xã hội.

Mô hình năng lực giao tiếp của Murcia, Dornyei, và Thurrell

Chịu ảnh hưởng lớn bởi hình của Canale Swain [1980], Murcia, Dornyei,

Thurrell [1995] đã đề xuất một hình năng lực giao tiếp được xây dựng đ nhằm

nâng cao hiệu quả của hoạt động giảng dạy ngôn ngữ. hình này sự phát triển của

mô hình năng lực giao tiếp mà Canale [1983] đã xây dựng với sự thêm vào của năng lực

hành động [actional competence]. Năng lực y được định nghĩa như khả năng biểu

đạt và hiểu ý định giao tiếp thông qua việc thực hiện và luận giải hành động nói [speech

acts] chuỗi các hành động nói. Ngoài ra, các tác gi y cũng đã thay thế thành tố

năng lực ngữ pháp của Canale [1983] bằng thành tố năng lực ngôn ngữ [linguistic

competence] đ bao quát hơn những thành tố không thuộc cấp độ pháp ncấp độ

ngữ âm, từ vựng v.v vào trong năng lực này. hình năng lực này bao gồm 5 thành tố

như sau [sơ đồ 2]:

1] Năng lực diễn ngôn

Năng lực liên quan đến sự lựa chọn, sắp xếp các từ, cấu trúc, câu và phát ngôn để tạo

ra được một văn bản nói hoặc viết có tính nhất thể.

2] Năng lực ngôn ng

Bao gồm các yếu tố bản của giao tiếp: các mẫu kiểu câu, cấu trúc thành tố, sự

biến đổi hình vị, các yếu tố từ vựng cũng như các hệ thống âm vị phát âm

được dùng để hiện thực hóa giao tiếp lời nói hoặc văn bản.

3] Năng lực hành động

Được định nghĩa như năng lực biểu thị hiểu các ý định giao tiếp, cụ thể, th

khớp giữa ý định giao tiếp với các phương thức ngôn ngữ có thể biểu thị ý định đó.

4] Năng lực văn hóa xã hội

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

Năng lực văn hóa hội [sociocultural competence] ch kiến thức người nói về cách

truyền tải thông điệp phù hợp với khung cảnh văn hóa hội diễn ra cuộc giao tiếp,

tương thích với các yếu tố ngữ dụng liên qua đến sự biến đổi trong sử dụng ngôn ngữ.

5] Năng lực chiến lược

Được hiểu là kiến thức về chiến lược giao tiếp và cách sử dụng những chiến lược này

trong các cuộc giao tiếp chân thực.

Như vậy, hình của Murcia các cộng sự sự tiếp nối phát triển của

hình năng lực giao tiếp Canale Swain đã xây dựng. Tuy nhiên, hình của

Murcia thuật ngữ năng lực ngôn ngữ được dùng để thay cho năng lực ngữ pháp thuật

ngữ này nội hàm khái niệm rộng hơn, bao gộp cả các cấp độ ngôn ngữ phi ngữ pháp

như ngữ âm, từ vựng. Chú ý rằng Canale Swain cũng đã sử dụng thuật ngữ năng lực

ngữ pháp với ý nghĩa này. Ngoài ra, Murcia đã tách năng lực ngôn ngữ xã hội của Canale

và Swain thành hai thành tố năng lực: 1] Năng lực văn hóa xã hội; 2] Năng lực hành động

[actional competence] để m rõ hơn các loại năng lực ngôn ng hội khác nhau trong

mô hình của Canale và Swain.

[Sơ đồ 2]

Mô hình khả năng ngôn ngữ của Bachman và Palmer

Bachman Palmer [1996] đã phát triển một hình h gọi bằng thuật ngữ

khả năng ngôn ngữ [language ability] dựa trên khung hình được Bachman đề xuất

trong cuốn sách Fundamental Considerations in Language Testing xuất bản năm 1990.

Mô hình khả năng ngôn ngữ của hai tác giả này [sơ đồ 3] bao gồm hai thành tố: 1] kiến

thức ngôn ngữ [language knowledge]; 2] năng lực chiến lược năng lực được xem như

là một bộ các chiến lược siêu nhận thức [metacognitive]. Sự kết hợp của hai thành tố này,

kiến thức ngôn ngữ được người dùng vận dụng bởi các chiến lược siêu nhận thức, sẽ làm

cho người dùng ngôn ngữ có khả năng sản sinh và tiếp nhận diễn ngôn.

1.Kiến thức ngôn ngữ

Kiến thức ngôn ngữ được hai nhà nghiên cứu xem như là những thông tin đã có sẵn trong

bộ nhớ thể được sử dụng bởi các chiến lược siêu nhận thức để tạo ra luận giải

các diễn ngôn khi giao tiếp nói hoặc viết. Kiến thức ngôn ngữ bao gồm hai loại: 1] Kiến

thức tổ chức [organizational knowledge]; 2] Kiến thức ngữ dụng [pragmatic knowledge]

1.1.Kiến thức tổ chức

Kiến thức tổ chức là kiến thức dùng để điều khiển cấu trúc chuẩn của ngôn ngữ để có thể

sản sinh hoặc hiểu các câu hoặc phát ngôn khả chấp về ngữ pháp; t chức những câu

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

phát ngôn này thành các văn bản nói hoặc viết. Kiến thức tổ chức bao gồm hai thành tố:

1] kiến thức ngữ pháp; 2] kiến thức văn bản

1.1.1. Kiến thức ngữ pháp

kiến thức được dùng để sản sinh hoặc hiểu các câu hoặc phát ngôn chuẩn. Kiến thức

này bao gồm kiến thức về chính tả, âm vị, từ vựng và cú pháp.

1.1.2. Kiến thức văn bản

Kiến thức văn bản kiến thức được dùng đ sản sinh hoặc hiểu các văn bản nói hoặc

viết. Kiến thức văn bản gồm có hai dạng:

1.1.2.1. Kiến thức về liên kết –

Được dùng để sản sinh hoặc hiểu các liên kết được biểu thị tường minh bằng các yếu tố

ngôn ngữ giữa các câu trong văn bản viết hoặc giữa các phát ngôn trong các cuộc thoại.

Vd: Con mèo đen chạy vào đến cửa. Nó nhìn thấy tôi bèn đứng lại.

Trong đoạn văn bản trên sự liên kết giữa hai câu được tạo ra bằng cách dùng đại từ thay

thế “nó” trong câu 2 để chỉ “con mèo đen” ở câu 1.

1.1.2.2. Kiến thức tổ chức cuộc thoại

Được dùng để sản sinh hoặc hiểu được cách thức một văn bản hoặc cuộc thoại được t

chức và duy trì, phát triển.

1.2.Kiến thức ngữ dụng

Được dùng đ tạo sinh hoặc luận giải diễn ngôn thông qua việc đặt các phát ngôn, câu

trong mối liên hệ với các yếu tố bên ngoài nó như văn cảnh, ý định của người dùng ngôn

ngữ, cảnh huống giao tiếp. Kiến thức ngữ dụng bao gồm hai loại: 1] kiến thức chức

năng [functional knowledge]; 2] kiến thức ngôn ngữ xã hội

1.2.1. Kiến thức chức năng

Kiến thức chức năng, Bachman [1990] gọi năng lực ngôn trung [illocutionary

competence], kiến thức được chúng ta s dụng để luận giải mối quan hệ giữa phát

ngôn hoặc câu với văn bản ý định mục đích - của người giao tiếp, vd: phát ngôn

“Anh thể nói cho tôi làm thế nào để đi đến bưu điện được không?” được người nói

dùng với mục đích chính để hỏi hướng đi hơn là hỏi năng lực chỉ đường của người nghe.

Do đó, câu trả lời phù hợp nênlời dẫn đường đến bưu điện của người nghe thay vì trả

lời bằng cách xác nhận “Tôi có thể” dù lời xác nhận này hồi đáp chuẩn xác nghĩa đen của

câu hỏi. Tuy nhiên, lại không đáp ứng ý định, mục đích chính được ngầm ẩn của

người giao tiếp.

Kiến thức chức năng bao gồm 4 loại: 1] kiến thức chức năng trải nghiệm [ideational

functions] dùng để miêu tả hoặc luận giải các trải nghiệm của chúng ta v thế giới

khách quan; 2] kiến thức chức năng điều khiển [manipulative functions] dùng đ ảnh

hưởng lên thế giới khách quan; 3] kiến thức chức năng khám phá [heuristic functions]

dùng để mở rộng kiến thức chúng ta v thế giới khách quan; 4] kiến thức chức năng

tưởng tượng [imaginative functions] dùng đ tạo một thế giới ởng tượng hoặc biến

đổi thế giới xung quanh chúng ta vì lý do thẩm mỹ hoặc hài hước.

1.2.2. Kiến thức ngôn ngữ xã hội

Kiến thức này làm cho chúng ta có th tạo lập hoặc tiếp thụ ngôn ngữ phù hợp với cảnh

huống mà nó được sử dụng, vd như các kiến thức về văn hóa, về phép lịch sự. Khen một

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

cô gái Tây là trông cô ta rất gợi cảm sexual - thì có thể làm cô ta rất thích nhưng lại có

thể khiến một cô gái Việt Nam thấy ngại hay xấu hổ.

2. Năng lực chiến lược

tập hợp của các chiến lược siêu nhận thức, ba miền các chiến lược siêu nhận thức

hoạt động: 1] thiết lập mục tiêu; 2] đánh giá; 3] lập kế hoạch

[Sơ đồ 3]

Mô hình Khung tham chiếu chung của châu Âu về ngôn ngữ

Khung tham chiếu chung của châu Âu về ngôn ngữ [Common European

Framework of Reference for languages: learning, teaching, assessment - CEFR] một

công trình nổi tiếng được xây dựng bởi một nhóm các học giả bao gồm John Trim,

Daniel Coste, Brian North và John Sheils tm 1993 đến 1996. Một trong những mục

tiêu của khung tham chiếu chuẩn hóa mức độ thành thạo ngôn ngữ thứ hai của người

học. Bộ khung này xây dựng trên nền tảng của ngôn ngữ học và giáo dục ngôn ngữ với

quan điểm ngôn ngữ là phương tiện để thực thi sự tương tác xã hội.

Chịu ảnh hưởng của lý thuyết ngữ dụng học đặc biệt là lý thuyết hành vi ngôn ngữ

của John Searle, ngôn ngữ học chức năng của Halliday, và ngôn ngữ học xă hội, khung

tham chiếu xác định bộ các hoạt động ngôn ngữ giao tiếp, năng lực ngôn ngữ giao tiếp v à

6 mức độ thành thạo ngôn ngữ [A1, A2, B1, B2, C1, C2] người học cần và có thể đạt

được. Theo khung tham chiếu này năng lực ngôn ng giao tiếp của người học

[communicative language competences] được xác định bao gồm 3 thành t [sơ đồ 4]: 1]

năng lực ngôn ngữ; 2] năng lực ngôn ngữ xã hội; 3] năng lực ngữ dụng

Năng lực ngôn ng được định nghĩa tương tự như khái niệm của Murcia [1995],

bao gồm sáu tiểu thành tố: 1] năng lực từ vựng; 2] năng lực ngữ pháp; 3] năng lực ngữ

nghĩa; 4] năng lực âm vị; 5] năng lực chính tả; 6] năng lực phát âm. Năng lực ngôn ng

xã hội là những kiến thức và kĩ năng cần có để có thể sử dụng ngôn ngữ cho phù hợp với

khung cảnh xã hội. Năng lực ngữ dụng là thành tố liên quan đến kiến thức của người học

về các nguyên lý mà các thông điệp [message] được:

a] Tổ chức, cấu trúc và sắp xếp [năng lực diễn ngôn]

b] Sử dụng để thực hiện chức năng giao tiếp [năng lực hành chức]

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

c] Sắp đặt theo những công thức tương tác và trao đổi [năng lực thiết kế]

Khung tham chiếu chung của Châu Âu về ngôn ngữ một bộ khung luận

tầm ảnh hưởng lớn lên việc học, dạy, đánh giá thiết kế chương trình ngôn ngữ. Nhiều

quan khảo thí đo lường, đánh giá đã sử dụng bộ khung làm nền tảng để xây dựng

thành công các bài kiểm tra đánh giá năng lực ngôn ngữ của người học hay sử dụng để

làm chuẩn chuyển đổi, so sánh điểm của các bài kiểm tra ngôn ngữ khác nhau như

TOEFL hay IELTS.

[Sơ đồ 4]

III. Kết luận

Các hình năng lực tiếng đã được phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Thành tựu đáng chú ý trong lĩnh vực này khái niệm năng lực tiếng các hình

năng lực tiếng đã được phát triển, làm rõ. Những thành tựu đó làm cơ sở lý luận cho quá

trình dạy học ngôn ngữ theo phương pháp giao tiếp trở nên phổ biến ngày càng

hiệu quả hơn. Một số quan điểm vẫn được coi nền tảng cho việc dạy học, thiết kế

chương trình và đánh giá năng lực tiếng của người học cho đến ngày nay như sau:

1] Năng lực tiếng không chỉ là kiến thức ngôn ngữ/ngữ pháp còn là khả năng vận

dụng kiến thức đó vào trong các cảnh huống giao tiếp thực tế một cách hiệu quả.

2] Kiến thức ngôn ngữ/ngữ pháp không đủ để giao tiếp thành công. Ngoài kiến thức

ngôn ngữ/ngữ pháp, cần phải có hiểu biết về khung cảnh giao tiếp, văn hóa, xã hội

để sử dụng ngôn ngữ phù hợp với khung cảnh giao tiếp, văn hóa và bối cảnh

hội đó.

3] Năng lực tiếng là một quá trình động

4] Mô hình năng lực tiếng là một cấu trúc nhiều tầng và đa thành tố.

5] Các thành tố của năng lực tiếng có sự tương tác với nhau.

thể nói những hình ng lực tiếng của các tác giả trên đã ảnh hưởng rất

lớn đến cuộc cách mạng trong dạy học, xây dựng chương trình và đánh giá năng lực tiếng

của người học. Dạy học tiếng/ngôn ngữ không chỉ dạy cho người học kiến thức ngữ

âm, từ vựng, ngữ pháp còn cần phải hướng dẫn người học cách thức sử dụng những

kiến thức đó hiệu quả và phù hợp với những cảnh huống giao tiếp đa dạng trong thực tế.

Điều này đòi hỏi người giáo viên không chnắm vững kiến thức ngôn ngữ còn phải

nền kiến thức rộng về thói quen sử dụng ngôn ngữ, kiến thức văn hóa, xã hội đó

Năng lực ngôn ngữ giao tiếp

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

ngôn ngữ họ giảng dạy được sử dụng rộng rãi. Đánh giá năng lực tiếng người học

cũng tương tự. Năng lực tiếng của người học cần được đánh giá qua các hoạt động tương

tác của họ trong các tình huống giao tiếp thực tế hoặc phỏng thực tế chứ không

phải đánh giá các kiến thức ngôn ngữ bị lập khỏi môi trường giao tiếp của người

học như kiến thức chính tả, từ vựng, ngữ pháp những thứ chỉ tồn tại tách biệt trong

đầu óc của họ.

Dạy học và kiểm tra đánh giá năng lực tiếng, đặc biệt tiếng Việt tiếng Anh,

của người học Việt Nam hiện nay vẫn theo con đường cổ điển dạy kiểm tra kiến

thức ngữ pháp, từ vựng là chính. Chính vậy học sinh, sinh viên của chúng ta năng

lực thực hành tiếng rất kém. Nhiều học sinh, sinh viên học tiếng Anh trong suốt cả nhiều

năm nhưng lại không thể đối thoại với người nước ngoài hay không thể viết được một

đơn đúng ngữ pháp, văn phong, cách thức đã học tiếng Việt từ lớp vỡ lòng. Gần đây,

để tiến hành cải cách toàn diện và căn bản nền giáo dục Việt Nam, Đảng ta đã ban hành

Nghị quyết 29 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo vào năm 2013, một

trong những trọngm của Nghị quyết này chuyển từ dạy kiến thức sang dạy để phát

triển năng lực người học. Tuy nhiên, năng lực là một khái niệm phức tạp, khó xác định và

tính chuyên biệt tùy theo từng chuyên ngành, từng lĩnh vực. Vì vậy, công trình y

của chúng tôi, với cách một bài nghiên cứu các công trình tiên phong ảnh

hưởng lớn trong lĩnh vực giảng dạy và đánh giá năng lực tiếng của người học ở bình diện

quốc tế, sẽ cung cấp sở luận về khái niệm, cấu trúc, hình năng lực tiếng của

người học. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng góp phần vào công cuộc đổi mới cách thức

dạy-học, xây dựng chương trình, đánh giá năng lực tiếng của người học trong nhà

trường chúng ta hiện nay một cách hiệu quả hơn.

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Chương trình "Khoa học công nghphục vụ phát

triển bền vững vùng Tây Bắc", Đề tài cấp Nhà nước, Mã số KHCN-TB/13-18.

Tài liệu tham khảo

1. Bachman, L. F. [1990]. Fundamental considerations in language testing. Oxford:

Oxford University Press.

2. Bachman, L. F., & Palmer, A. S. [2010]. Language assessment in practice.

Oxford: Oxford University Press.

3. Ban chấp hành Trung Ương Đảng. [2013]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8

Khóa IX về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Truy cập từ Internet:

//thuvienphapluat.vn/van-ban/Thuong-mai/Nghi-quyet-29-NQ-TW-nam-

2013-doi-moi-can-ban-toan-dien-giao-duc-dao-tao-hoi-nhap-quoc-te-212441.aspx

4. Campbell, R. and R. Wales. 1970. The study of language acquisition. In J. Lyons.

[Ed]. New horizons in linguistics. Harmondsworth: Penguin Books.

5. Canale, M., & Swain, M. [1980]. Theoretical bases of communicative approaches

to second language teaching and testing. Applied Linguistics,1, 1-47

Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 142 – 07/2017 Viện Khoa học Giáo dục

6. Canale, M. [1983]. From communicative competence to communicative language

pedagogy. In Richards, J. C., & Schmidt, R. W. [Eds.], Language and

communication. London: Longman.

7. Celce-Murcia, M., Dérnyei, Z., & Thurrell, S. [1995]. Communicative competence: A

pedagogically motivated model with content specifications. Applied Linguistics, 6, 5-35.

8. Cheng, K.M. [2017]. Advancing 21st century competencies in East Asian education

system: Asia Society, Center of Globa Education.

9. Chomsky, N. [1965]. Aspects of the theory of syntax. Cambridge, Massachusetts:

The M.I.T. Press.

10. Council of Europe [2001]. Common European framework of reference for

languages: Learning, teaching and assessment. Strasbourg.

11. Hymes, D. H. [1972]. On communicative competence. In Pride, J. B., & Holmes,

J. [Eds.], Sociolinguistics, 269-293. Baltimore: Penguin Education, Penguin Books

Ltd.

12. Schachter, J. [1990]. Communicative competence revisited. In B. Harley, P. Allen,

J. Cummins, & M. Swain [Eds.], The development of second language proficiency.

New York: Cambridge University Press.

Video liên quan

Chủ Đề