Cuộc cách mạng nào ảnh hưởng đến việc hình thành

Tóm tắt: Ngày 25-10-1917 (tức ngày 7-11-1925 theo Công lịch), giai cấp công nhân Nga và nhân dân lao động Nga, dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin đã tiến hành cuộc cách mạng vô sản làm “rung chuyển thế giới”. Đây là một trong những cuộc cách mạng có ý nghĩa vĩ đại nhất, mở ra kỷ nguyên mới trong sự phát triển của xã hội loài người, mở đầu thời đại mới-thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Cuộc cách mạng ấy ngay lập tức đã được triệu triệu người lao động cần lao trên thế giới, trong đó có Việt Nam đồng tình, hưởng ứng. Những giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn hiện tồn trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Cách mạng Tháng Mười Nga; công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

1. Ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là “xung lực” cổ vũ, thúc đẩy phong trào cộng sản quốc tế và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển mạnh mẽ; đưa giai cấp vô sản từ giai cấp bị đàn áp, bị bóc lột trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp trung tâm của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dạy cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới nhiều bài học hết sức quý báu, bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và của cả loài người”1. Sau thành công của Cách mạng Tháng Mười, nước Nga Xô viết chiến thắng chủ nghĩa phát xít, phát triển CNXH từ một nước thành một hệ thống với sự xuất hiện nhiều nước XHCN ở châu Âu và châu Á. Phong trào giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân diễn ra khắp nơi đã chứng minh hùng hồn trong thực tiễn sứ mệnh xây dựng CNXH của giai cấp công nhân như C.Mác đã chỉ ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ đem lại cho giai cấp vô sản và những người lao động toàn nước Nga một cuộc đời mới mà còn làm thức tỉnh toàn thể nhân loại, nhất là với các dân tộc thuộc địa, trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, quyết định vận mệnh của mình. Không chỉ làm lung lay tận gốc rễ chủ nghĩa đế quốc ở trung tâm của nền thống trị của nó, Cách mạng Tháng Mười Nga còn cổ vũ, phát động cuộc đấu tranh vì độc lập tự do của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh; đồng thời, chỉ cho họ con đường và khả năng tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng ấy.

2. Ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga đến con đường phát triển của cách mạng Việt Nam Đối với con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Cách mạng Tháng Mười Nga đã có ảnh hưởng từ rất sớm. “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc sáng tỏ nhận thức và niềm tin đối với con đường cách mạng Việt Nam. Đó là cơ sở quan trọng để Người truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng. Người viết: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”2. Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng cương lĩnh đấu tranh cách mạng giành độc lập cho dân tộc và phát triển đất nước theo con đường XHCN. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát triển hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với tinh thần tự lực, tự cường quyết đem sức ta tự giải phóng cho ta đã làm nên thắng lợi vẻ vang của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Cuộc cách mạng đó đã phát triển sáng tạo những kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga về đấu tranh giành và giữ chính quyền, về khởi nghĩa toàn dân, vũ trang toàn dân, về tình thế và thời cơ cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng ở thời điểm có tính bước ngoặt của lịch sử. Trên cơ sở nội lực, thực lực cách mạng được phát huy cao nhất, đồng thời tranh thủ cơ hội thuận lợi do chiến thắng của Liên Xô và Đồng Minh đối với chủ nghĩa phát xít, quân phiệt, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã nhanh chóng giành thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Con đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, mà Lênin vĩ đại đã vạch ra cho nhân dân lao động toàn thế giới, cho các dân tộc bị áp bức và cho cả loài người tiến bộ đi đến thắng lợi hoàn toàn”3. Ngay sau khi ra đời, Nhà nước cách mạng non trẻ đã phải đương đầu với những thử thách nặng nề. Việt Nam phải tiến hành kháng chiến kéo dài 30 năm (1945-1975) chống sự xâm lược của những thế lực thực dân, đế quốc để giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ đó, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, có hiệu quả của Liên Xô và các nước XHCN, các lực lượng dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Những kinh nghiệm quý của nước Nga Xôviết về chống chiến tranh can thiệp của các nước đế quốc (1918-1920), trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-1945) có ý nghĩa sâu sắc đối với các cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt Nam. Cách mạng Tháng Mười Nga đã khai phá con đường đi lên CNXH. Cách mạng Việt Nam đã và đang phát triển trên con đường đó. Đó là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của thời đại, được bắt đầu từ năm 1930 khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập. Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngày 30-4-1975, miền Nam Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên CNXH. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng rất coi trọng học tập kinh nghiệm của Liên Xô và các nước XHCN anh em, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với đặc điểm của Việt Nam, tìm ra quy luật riêng của Việt Nam. Việt Nam đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô về nhiều mặt, nhất là xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của CNXH trong quá trình công nghiệp hóa đất nước.

3. Cách mạng Tháng Mười Nga với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, V.I.Lênin và các nhà lãnh đạo cách mạng đã có hàng loạt chủ trương, chính sách có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của nhà nước Xô viết non trẻ. Hai sắc lệnh được chính quyền Xô viết ban hành ngày 26-10-1917 (tức ngày 8-11-1917) là “Sắc lệnh hòa bình” và “Sắc lệnh ruộng đất”. Nếu phải tổng kết về ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đối với Liên Xô nói riêng và các nước trên thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam, thì đó là ba tư tưởng có ý nghĩa toàn cầu vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay: Hòa bình cho nhân loại, ruộng đất cho nông dân và chính quyền về tay nhân dân. Nhờ có tư tưởng đó mà Liên Xô đã chống thù trong giặc ngoài những năm 1920 thành công, thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin; nhờ có tư tưởng đó mà Liên Xô đã giành thắng lợi trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945), cứu loài người khỏi ách phát xít; nhờ đó mà Liên Xô trở thành một cực trong Trật tự Yalta giữ cho thế giới cân bằng tương đối. Dưới tác động của phong trào “cải tổ” (Perestroika) và “công khai” (Glasnost) do Liên Xô khởi xướng, đường lối đổi mới của Đảng được thông qua lần đầu tiên tại Đại hội VI (12-1986) của Đảng được điều chỉnh, bổ sung và phát triển tại các kỳ đại hội tiếp theo. Có thể thấy rõ những nội dung đổi mới quan trọng và chủ yếu cả về nhận thức, tư duy lý luận và cả về lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn suốt hơn 30 năm qua của Đảng có ảnh hưởng sâu sắc từ những bài học, kinh nghiệm thực tiễn được đúc kết sâu xa từ Cách mạng Tháng Mười Nga. Thứ nhất, đó là đổi mới tư duy lý luận mà thực chất là nắm vững và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan trong CNXH khoa học, chủ nghĩa Mác-Lênin, khắc phục căn bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí. Ngay từ Đại hội VI (1986), Đảng đã nhận thức rằng, từ CNTB lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kỳ đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước. Đại hội IX (4-2001) của Đảng tổng kết 15 năm đổi mới, xác định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”4. Đảng khẳng định thời kỳ quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn5. Thứ hai, từ nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ, Đảng quyết định đổi mới cơ cấu kinh tế, coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Đại hội VI đã vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I.Lênin về kinh tế nhiều thành phần. Chính V.I.Lênin cũng cho rằng tên nước “Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa” là để khẳng định hướng tiến lên chứ điều đó chưa có nghĩa là nền kinh tế của ta đã hoàn toàn là kinh tế XHCN. Vì vậy, ở nước ta cần thiết phải có nhiều thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trước pháp luật, đó là yêu cầu khách quan. Đại hội VI của Đảng khẳng định nước ta có các thành phần: kinh tế XHCN bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể; kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp. Đại hội IX (2001) của Đảng bổ sung thêm một thành phần nữa là kinh tế 100% vốn nước ngoài. Thực tiễn đổi mới cũng cho thấy nhiều thành phần kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Cùng với đổi mới cơ cấu kinh tế, Đảng chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, dứt khoát bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh và từng bước đưa nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thứ ba, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng và vai trò, chức năng quản lý điều hành của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền XHCN. Củng cố sức mạnh của hệ thống chính trị. Đại hội VI của Đảng đặt ra yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một Đảng cầm quyền, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn, đổi mới phong cách làm việc, đi sâu, đi sát thực tế, sát cơ sở, gắn bó với nhân dân. Nâng cao trình độ trí tuệ, nắm bắt và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan, hiểu biết sâu sắc những vấn đề kinh tế, xã hội. Đại hội VI của Đảng đã xác định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế-xã hội của bộ máy Nhà nước, nghĩa là, Nhà nước thông qua hệ thống pháp luật và chính sách để điều hành, quản lý nền kinh tế-xã hội ở tầm vĩ mô. Từ sau Đại hội VII (1991), đặc biệt là HNTƯ 8 khoá VII (1-1995) của Đảng, HNTƯ 3 khoá VIII (6-1997) của Đảng đã đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Quan điểm cơ bản là quyền lực nhà nước là thống nhất, song có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thứ tư, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng nhân dân và thực hiện nền dân chủ XHCN. Đại hội VI của Đảng đã rút ra bài học là trong toàn bộ hoạt động, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Chính lợi ích, sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới. Điều này đã được đúc kết và thông qua bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân sau Cách mạng Tháng Mười Nga. Một trong những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới mà HNTƯ 6 khoá VI (3-1989) của Đảng nêu ra là phải thực hiện tốt hơn dân chủ XHCN, nhưng dân chủ luôn luôn gắn liền với tập trung, gắn liền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân, với kỷ cương, kỷ luật pháp luật, dân chủ phải có lãnh đạo và lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ. NQTƯ 8B khoá VI (3-1990) của Đảng “Về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân” nhấn mạnh: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; động lực thúc đẩy phong trào quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi với nghĩa vụ công dân; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể. Đảng chú trọng xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong công cuộc đổi mới. Đoàn kết các giai cấp, các thành phần kinh tế, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, mọi tầng lớp, cá nhân yêu nước, đoàn kết người Việt Nam ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài nhằm phát huy nội lực của dân tộc Việt Nam. Tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, ý nghĩa thời đại và những bài học quý báu của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại là tài sản vô giá, có giá trị bền vững, tiếp tục tỏa sức sống mạnh mẽ đối với cách mạng Việt Nam và nhân loại tiến bộ. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH-ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc cách mạng tiền bối đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau, nhất định chúng ta sẽ phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên CNXH.

Bài đăng trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 11-2018 1. Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, H, 2011, T. 12, tr. 390 2. Sđd, T. 15, tr. 387 3. Sđd, T. 14, tr. 609 4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001, tr. 21-22 5. Xem Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr. 70.