Đâu không phải là một phương pháp thuyết minh

Câu 1: Đề văn thuyết minh nêu lên điều gì? 

  • B. Nêu các đối tượng để người làm bài miêu tả từng chi tiết về chúng.
  • C. Nêu các đối tượng để người làm bài bảo vệ các quan điểm đúng về chúng.
  • D. Nêu các đối tượng để người làm bài nói về cảm xúc chủ quan về chúng.

Câu 2: Để làm bài văn thuyết minh cần có những yêu cầu gì?

  • A. Tìm hiểu kĩ đối tượng thuyết minh, xác định rõ phạm vi tri thức về đối tượng đó.
  • B. Sử dụng phương pháp thuyết minh thích hợp.
  • C. Ngôn từ chính xác, dễ hiểu.

Câu 3: Bố cục một bài văn thuyết minh thường có những phần nào?

  • A. Đề, thực, luận, kết 
  • B. Giới thiệu vấn đề, giải thích vấn đề, kết luận vấn đề.
  • D. Bố cục tùy theo nhu cầu của người viết, không có quy định cụ thể.

Câu 4: Trình bày cấu tạo, các đặc điểm, lợi ích,...của đối tượng là nội dung cụ thể của phần nào trong kết cấu một bài văn thuyết minh?

  • A. Luận
  • B. Giải thích vấn đề 
  • D. Tùy thèo sắp xếp của người viết

Câu 5: Cách nhận biết một đề văn là đề văn thuyết minh là gì?

  • B. Đề bài có chứa từ ngữ như từ "miêu tả”, "trình bày chi tiết"
  • C. Đề bài có chứa từ ngữ như từ "kể”, "tự sự"
  • D. Tất cả các đáp án trên

Câu 6: Phương pháp thuyết minh nào phù hợp với một bài văn thuyết minh?

  • A. Nêu định nghĩa, nêu ví dụ
  • B. Liệt kê, so sánh đối chiếu phân tích, phân loại, dùng số liệu
  • C. Mô tả sự vật, sự việc

Câu 7: Đề văn nào sau đây không phải là đề văn thuyết minh?

  • A.  Giới thiệu một gương mặt trẻ của thể thao Việt Nam (ví dụ: Nguyễn Thúy Hiền, Trần Hiếu Ngân, Nguyễn Ngọc Trường Sơn,...)
  • B. Giới thiệu một tập truyện
  • C. Giới thiệu về chiếc áo dài Việt Nam

Cho đề bài: Thuyết minh về một món ăn dân tộc (bánh chưng, bánh giầy, phở, cốm....)

Câu 8: Đối tượng thuyết minh của đề bài trên là gì?

  • B. Món bít tết bò kiểu Mỹ 
  • C. Một thức quà ăn vặt
  • D. Một loại thực phẩm phổ biến trong cuộc sống hàng ngày

Câu 9: Nội dung nào không phù hợp với đề bài trên?

  • A. Giới thiệu tên món ăn
  • B. Những nguyên liệu tạo nên món ăn và cách làm món ăn
  • C. Ý nghĩa, các dịp thường thưởng thức của món ăn.

Cho đề bài sau: Giới thiệu một gương mặt trẻ của thể thao Việt Nam.

Câu 10: Đối tượng thuyết minh của đề bài trên là gì?

  • B. Một vị huấn luyện viên của thể thao.
  • C. Một vị trọng tài của thể thao.
  • D. Một vị giám đốc của một câu lạc bộ thể thao.

Câu 11: Nội dung sau đây nào phù hợp với đề bài trên?

  • B. Thâm niêm công tác của người đó trong ngành thể thao.
  • C. Bằng cấp, chứng chỉ của người để để tham gia hành nghề trong lĩnh vực thể thao.
  • D. Vị trí của người đó trong bảng xếp hàng tổng tài sản có được.

Đọc bài văn thuyết minh sau và trả lời câu hỏi:

XE ĐẠP

     Có một thời xe đạp là phương tiện giao thông cá nhân chủ yếu của người Việt Nam. Xe đạp là phương tiện giao thông giản tiện chuyển động nhờ sức người.     Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe đạp ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn 2 lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn 2 vòng. ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp, như vậy ổ  líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh. Lúc đầu bánh xe làm bằng gỗ, khi chạy se xóc rất dữ. Ngày nay người ta làm bánh xe bằng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe chạy ít xóc hẳn.     Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay cầm, điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe. Bộ phanh gồm tay phanh, giây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng xe theo ý muốn.Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và giàn đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được khá nhiều hàng. Có khi người ta lại lắp bộ phận chở hàng ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.     Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đinamô lắp ở trước càng xe, và đèn tín hiệu lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.     Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Đi xe đạp là một cách vận động cơ thể  như một hoạt động thể thao.

    Hiện nay xe máy quá nhiều, có cơ lấn lướt xe đạp, vừa gây ách tắc giao thông, vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Câu 12: Đối tượng thuyết minh của bài văn là gì?

  • B. Vai trò của xe đạp với đời sống của người Việt Nam 
  • C. Các loại xe đạp có trên thị trường Việt Nam 
  • D. Lợi ích của việc sử dụng xe đạp với môi trường 

Câu 13: Xác định phần mở bài trong bài văn trên?

  • B. Từ đầu đến ..."chạy ít xóc hẳn."
  • C. Từ đầu đến ..."có thể dừng xe theo ý muốn."
  • D. Từ đầu đến ..."chủ yếu của người Việt Nam."

Câu 14: Thứ tự các bộ phận của xe đạp được trình bày theo thứ tự trong bài văn đã hợp lí chưa?

Câu 15: Phương pháp thuyết minh được dùng trong bài văn trên là gì?

  • B. Phương pháp nêu định nghĩa, liệt kê, phân loại, phân tích.
  • C Phương pháp nêu định nghĩa, phân tích.
  • D. Phương pháp nêu định nghĩa.

Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như: nêu định nghĩa, mô tả sự vật, sự việc, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh đối chiếu phân tích, phân loại, dùng số liệu... Nói vừa phải, tránh đại ngôn...

1. Yêu cầu

Muốn nói thì phải hiểu điều mình định nói. Không thể vu vơ.

Muốn làm tốt bài văn thuyết minh cũng vậy, nghĩa là người viết, người nói phải nghiên cứu, tìm hiểu sự vật, hiện tượng cần thuyết minh, nhất là phải nắm chắc bản chất đặc trưng, mối tương quan của nó, để có thể trình bày một cách sáng tỏ, đầy sức thuyết phục; tránh lan man, vô nghĩa, ngụy biện.

Ví dụ, các bản thuyết minh về các loại thuốc hiện nay, nói "bốc lên” như một linh đan, một thần dược, người nghe cảm thấy ngờ vực về sự "một tấc đến giời!".

2. Phương pháp thuyết minh

Để bài văn thuyết minh có sức thuyết phục, dễ hiểu, sáng rõ, người ta có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh như: nêu định nghĩa, mô tả sự vật, sự việc, nêu ví dụ, liệt kê, so sánh đối chiếu phân tích, phân loại, dùng số liệu... Nói vừa phải, tránh đại ngôn.

Ví dụ

a, Cách giữ những quyển sách quý

Muốn giữ những quyển sách quý được bền lâu, xin bạn làm theo cách sau đây:

-   Đừng dùng ngón tay thấm nước miếng khi lật, giở trang sách.

-   Khi các trang sách bị dính bẩn, bạn nên lấy xà phòng xát nhẹ lên rồi nhỏ vài giọt nước mà chà cho sạch, sau đó đem phơi khô trước khi cất vào tủ.

-   Tủ và ngăn đựng sách lúc nào cũng phải giữ cho khô và sạch. Nên gói một cục vôi sống để ở một góc hay dưới đáy tủ.

b, Cách làm sạch gầu trên tóc

Gầu là thứ "bụi" nhỏ ở da đầu, làm cho ta ngứa ngáy khó chịu. Muốn chữa, hãy làm theo cách này, trước tiên phải gội đầu thật sạch; cần sạch vì gầu làm nghẹt chân tóc. Sau đó, lấy một cái chén, đập trứng lấy lòng đỏ, pha thêm hai muỗng rượu cô nhắc và một chung nước trà đậm, đánh cho trứng tan đều ra. Lấy hỗn hợp chất này xức lên tóc, vò đầu thật kĩ, tiếp theo gội lại bằng xà phòng thơm với nước âm ấm. Nếu thấy chưa được sạch, hãy lấy nước pha thêm một muỗng dấm. Gội độ 5, 6 lần như vậy trong tuần, gầu sẽ sạch ngay!

c, Trái thơm (quả dứa)

-   Ngoài những cách dùng thông thường, ta có thể lấy trái thơm vắt nước, hoà với lòng đỏ trứng gà, có tác dụng trị bệnh đau bao tử.

-   Lựa trái thơm chín, gọt vỏ, lấy một chút phèn chua giã nát, rắc lên trái thơm, rồi lấy bẹ chuối bó lại đem nướng chín, vắt lấy nước uống, trị dược bệnh sỏi thận.

-   Cũng trái thơm chín, gọt vỏ xắt thành miếng nhỏ, đem xếp vào tô, rắc đường cát hoặc đường phèn, đem phơi sương, ăn cả cái lẫn nước, trị bệnh ho lâu năm.

(Trích cuốn Mẹo vặt gia đinh của Nguyễn Quân)

d, Cây kè

Cánh đồng xứ Thanh, đúng như người ta nói, rộng mỏi cánh cò bay. Chúng tôi đã đi gần hai ngày mà vẫn chưa hết những cánh đồng bằng phẳng, thính thoảng nổi lên một cái gò đất bên trên cỏ mọc lúp xúp và những thân cây kè vươn cao tận trời xanh. Cây kè cho loài người bao nhiêu lá thì trên thân có bấy nhiêu đốt, như thế thân cây càng cao.

Tôi vừa đi vừa ngắm không chán những cây kè lâu năm, thân to cao vút và cả những cây kè còn non, thấp lè tè, mà những tấm lá rộng lớn đã bọc kín gốc cây.

Một vài nơi trên cánh đồng, người ta đang trẩy lá kè. Rừng kè xào xạc. Những người chặt lá nói chuyện từ ngọn cây này sang ngọn cây khác. Trên một cái gò kề bên, việc chặt lá vừa xong, những cây kè bây giờ trông kệch cỡm và xấu xí, cả rừng cây giống như một hàng những chiếc chổi lông gà cắm ngược. Chính những "chiếc lông gà" ấy tạo nên một nét đặc biệt cho cánh đồng xứ Thanh không giống bất kì một vùng nào khác. Rồi đây những tàu lá kè sẽ được phơi khô, trở nên trắng nõn, sẽ đem làm nón, làm mũ làm áo tơi, lợp phên cửa, lợp mái nhà,... Những mái nhà lợp bằng lá kè có thể bền hơn lợp ngói, được hàng chục năm"...

(Những ngày lưu lạc - Nguyễn Minh Châu)

Ở Phú Thọ gọi là cây cọ, trồng trên đồi. Ở Thanh Hoá gọi là cây kè, được trồng trên những gò đất nổi lên giữa đồng lúa mênh mông bát ngát mỏi cánh cò bay. Cây kè non lúp xúp lá; cây kè lâu năm, thân cao vút để lại nhiều đốt. Khi cây kè trẩy hết lá trông "kệch cỡm, xấu xí" tựa như những chiếc lông gà cắm ngược.

Công dụng của lá kè rất to lớn: làm nón, làm mũ, làm áo tơi, lợp phên cửa, lợp mái nhà rất bền.

Đó là những hiểu biết, nhũng tri thức về cây kè xứ Thanh mà tác giả đã thuyết minh cho ta rõ.

e, Cái quạt giấy

Cái quạt giấy, quạt nan, quạt lá cọ, quạt mo, đã cho thấy đầu óc sáng tạo, nếp sống giản dị của dân tộc ta.

Trước đây, kinh tế còn nhiều thiếu thốn, khó khăn, hầu như người nào, gia đình nào cũng có hai ba chiếc quạt giấy, quạt nan. Cái quạt thủ công vừa rẻ, vừa tiện lợi. Lúc nóng cần phe phẩy thì xoè ra, dùng xong thì xếp lại. Quạt giấy dùng lâu đã sờn, đã rách thì ta mua quạt khác hoặc dùng quạt nan, quạt mo.

Chiếc quạt giấy đã đi suốt hành trình nhiều thế kỉ. Bước sang thiên kỉ mới, quạt máy đẹp, tốt và rẻ, điện đã về tận mọi xóm làng quê, nhưng ta vẫn thấy cái quạt giấy, quạt lụa, quạt nhựa, đủ màu sắc dáng hình. Các điểm du lịch, các hội chợ, cái quạt giấy đã trở thành món hàng lưu niệm được nhiều du khách ưa chuộng. Khách sạn Métropole giữa thủ đô Hà Nội, năm nào cũng đặt mua hàng vạn quạt giấy xinh xinh. Bà đồng cốt ở hội Phủ Giày, ở lễ hội Đền Sòng vẫn dùng cái quạt giấy rõ to rõ dài... lúc múa hát.

Trước đây, ở nước ta có nhiều làng nghề nổi tiếng làm quạt như làng Vác ở Thanh Oai, làng Chàng Sơn ở Quốc Oai,... thuộc xứ Đoài, Sơn Tây, Hà Nội. Tục ngữ còn lưu truyền: “Nón Chuông, quạt Vác, mành mành Võ Lăng". Nhiều hộ làm quạt giấy ở làng Vác, ở làng Chàng Sơn cho đến nay vẫn không hết việc, vẫn sinh sống và làm giàu bằng nghề truyền thống của ông cha.

Nan quạt vẫn bằng tre, trúc thanh mảnh, nuột nà, vẫn bằng giấy và lụa, vẫn có đủ 17 hay 18 nan, nhưng màu sắc và hoạ tiết (là hoa, là ong bướm, là Tố Nữ, là phong cảnh, v.v....) đã nâng tầm vóc chiếc quạt giấy thành một vật phẩm lưu niệm của khách du lịch, nhất là các ông Tây, bà đầm. Cái mắt quạt bằng kim loại màu làm cho quạt thêm xinh thêm đẹp.

Triển lãm Festival nghề truyền thống Việt Nam tại Huế 2009, nhiều người đã ngạc nhiên và trầm trồ về chiếc quạt giấy khổng lổ với chiều cao 4,5 mét, chiều rộng 9 mét, được trang trí tuyệt đẹp. Tác giả chiếc quạt ấy là nghệ nhân Dương Văn Mơ, ngoài 70 tuổi, người làng nghề Chàng Sơn.

Lưỡng quốc Trạng Nguyên Mạc Đĩnh Chi đã có 8 bài thơ liên hoàn vịnh cái quạt. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng có 2 bài thơ hóm hỉnh nói về cái quạt giấy: "Mười bảy hay là mười tám đây? - Cho ta yêu dấu chẳng rời tay... “

Cái quạt giấy bình dị và thân thuộc thật đáng yêu. Nó là hồn quê đất Việt.