Đâu là vai trò của ngôn ngữ học trong nhà trường

Ngoại ngữ là phương tiện để thâm nhập, kết nối mọi người, để “toàn cầu hóa” chính mỗi người. 

Trong kinh tế học, tiền tệ có chức năng trao đổi, là vật ngang giá, là tiền tệ thế giới, thì trong đời sống sinh hoạt vật chất và tinh thần, ngôn ngữ là phương tiện để gắn kết con người trên toàn thế giới lại với nhau. Anh có thể khác nhau về chủng tộc, sắc tộc, có thể tồn tại một góc nhỏ nào đó trên thế giới, chỉ cần anh biết một ngôn ngữ ngoài ngôn ngữ mẹ đẻ là anh có thể giao tiếp, giao lưu với những người nói thứ tiếng ấy. Và như vậy, khoảng cách khác biệt đầu tiên là rào cản về ngôn ngữ bị thu hẹp, khi đó thế giới bên ngoài chúng ta không còn cách biệt với chúng ta. Khi chúng ta biết sử dụng ngoại ngữ, nhất là khi ngôn ngữ đó là thứ ngôn ngữ thông dụng trên thế giới thì vấn đề giao lưu hội nhập trở thành rất nhỏ, nói như nhiều chuyên mục của tạp chí là “Thế giới trong lòng bàn tay” [The world in the hollow of our hands]. Hiện nay, tiếng Anh đóng vai trò là thứ ngôn ngữ quốc tế được sử dụng trên mọi lĩnh vực, mọi hoạt động. Có khoảng bốn trăm triệu người trên thế giới nói ngôn ngữ này và tiếng Anh trong thế giới toàn cầu hóa được gọi là “Globish” [Global English]. Việc học tiếng Anh càng ngày càng trở nên thông dụng ở nước ta, do vậy nếu chúng ta làm chủ tiếng Anh, chúng ta sẽ có rất nhiều cơ hội để kết nối, thâm nhập vào thế giới rộng lớn này. Tuy nhiên, việc học ngoại ngữ còn tùy thuộc vào sở thích, mục đích, điều kiện nên không nhất thiết phải học tiếng Anh mà chúng ta có thể học thêm một thứ tiếng khác ngoài tiếng Anh [như Pháp, Nhật, Đức, Nga, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…]. Việc học ngôn ngữ nào là tùy khả năng của chúng ta, điều đó không làm giảm giá trị của người học, chỉ miễn là chính ta thành thạo nó. 

Ngoại ngữ không là công cụ thuấn túy, là chữ vô hồn, ngoại ngữ là bản thân văn hóa.

Ngôn ngữ là vỏ vật chất của tư duy, ngôn ngữ chứa đựng trong nó nội dung khách quan của sự vật hiện tượng, của đời sống sinh hoạt vật chất của con người. Do đó học ngoại ngữ là chúng ta tiếp nhận một hệ thống vật chất thứ hai [ngoài tiếng mẹ đẻ], nó cũng đầy đủ toàn vẹn như hệ thống tín hiệu thứ nhất ấy trên nhiều phương diện. Do đó, rất dễ hiểu vì sao những người có trình độ cao dễ tiếp nhận ngoại ngữ hơn là những người có học vấn thấp [tuy nhiên không ngoại trừ những trường hợp có khiếu ngoại ngữ]. 

Chính ngôn ngữ là văn hóa nên việc học ngoại ngữ phải đi liền với học văn hóa, tiếp nhận các kiến thức khoa học mới mẻ. Học ngoại ngữ phải am hiểu văn hóa. Do đó, sinh viên ở các trường ngoại ngữ bao giờ cũng được đào tạo gắn với rất nhiều môn học về đất nước đó. Hai cái này không tách rời nhau. 

Ngoại ngữ là bản thân văn hóa, vì thế ở một khía cạnh khác, nó trở thành phương tiện rất quan trọng để cải thiện văn hóa của mình. Trong thế giới toàn cầu hóa, điều này rất dễ nhận thấy, tri thức không ngừng tăng lên, không ngừng trao truyền, biết thêm một ngoại ngữ là chúng ta có thêm một cánh cửa để thông ra với thế giới bên ngoài. Học ngoại ngữ trở nên thiết yếu với các nhà khoa học, nhất là nhà khoa học trẻ, nếu không có ngoại ngữ các bạn trẻ sẽ trở nên bất lợi, thậm chí rất khó khăn khi làm khoa học, giao lưu và trao đổi học thuật. 

Học ngoại ngữ tốt nhất là lúc còn trẻ và căn bản là tự học, đặc biệt là lúc ngồi trên ghế nhà trường.

Não bộ của chúng ta là một cơ quan xử lý tinh vi phức tạp, nó luôn được làm đầy bởi tri thức, bởi kinh nghiệm cá nhân… Lúc còn trẻ não bộ còn trống rỗng, chưa phải “căng thẳng” nhiều luồng tri thức, nhiều mối quan hệ phức tạp nên sự tập trung còn dễ dàng hơn, do đó những người trẻ phải tận dụng tuổi trẻ, sức trẻ để học văn hóa, tri thức, trong đó có ngoại ngữ. Những tài liệu khoa học cho thấy, những người học ngoại ngữ lúc còn trẻ dễ dàng tiếp nhận và thuần thục các kỹ năng hơn những người lớn tuổi. Nhiều bạn trẻ khi ngồi trên ghế nhà trường, trên giảng đường đại học chỉ cố để học thi qua môn ngoại ngữ [vì ngoại ngữ là môn khó học], cái lý của họ ra là ra trường đi làm rồi hẵng học, vì ngoại ngữ không sử dụng sẽ quên đi. Đó là sự ngụy biện, muốn học tốt ngoại ngữ là cả một quá trình tích lũy dày công chứ không phải “mì ăn liền”, nay học mai có thể sử dụng, càng không thể sử dụng nhuần nhuyễn nhất là đối với ngoại ngữ thuộc chuyên ngành khoa học, nghệ thuật. 

Khi học ngoại ngữ, điều rất quan trọng là tự học. Hiện nay có nhiều học sinh, sinh viên đến các lớp học ngoại ngữ ở các trung tâm xem ra hiệu quả không được là bao, vì không phải trung tâm nào cũng là cơ sở có chất lượng, và những người giảng dạy ở các trung tâm đó là những người thầy cô giỏi. Mà việc học ở các trung tâm này học phí khá là đắt đỏ. Trong khi ít chú trọng đến tự học, tự luyện, tự trau dồi các kỹ năng cho mình. Tự học là tự mày mò, tự hỏi thêm người hiểu biết, tự tra cứu từ điển, tự làm bài tập, tự luyện nghe nói qua băng, đĩa. Tự học như vậy là thể hiện sự tự chủ và tự tin của người học, những yếu tố rất quan trọng để dẫn tới thành công trong học tập. Điều này là điều kiện rất cần thiết cho những người đã có một ít vốn nho nhỏ về ngoại ngữ khi muốn tiếp bước sâu hơn vào thế giới ngôn ngữ đó. Qua kinh nghiệm nhiều người thành đạt về học ngoại ngữ đều cho thấy chủ yếu là tự học là chủ yếu. Nói như vậy không có nghĩa là xem thường vai trò của người “hướng đạo” nhưng nếu chỉ chăm chắm chờ trợ lực từ bên ngoài mà bản thân không say mê kiên trì thì không thể học tốt ngoại ngữ. 

Thời đại toàn cầu hóa đang đặt ra nhiều cơ hội lẫn thách thức, đang làm thay đổi nhiều quan niệm khác nhau trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngoại ngữ và tin học là những công cụ không thể thiếu để hội nhập toàn cầu. Bản thân việc học ngoại ngữ thể hiện rất rõ xu thế tăng cường khả năng hội nhập của mỗi mỗi người mỗi quốc gia dân tộc. Học tốt và sử dụng thành thạo một ngoại ngữ sẽ có nhiều cơ hội về học tập và công việc, không chỉ ở trong nước mà ở nước ngoài, để tiếp nhận khoa học công nghệ văn hóa làm giàu cho chính mình và cho Tổ quốc, quê hương. Vấn đề là các bạn trẻ phải ý thức được sức mạnh của việc học tập này và có phương cách học tập đúng đắn sẽ mang lại hiệu quả thiết thực nhất.

Thanh niên Việt Nam hiện nay, nhìn chung khả năng giao tiếp và làm việc bằng ngoại ngữ còn hạn chế, điều này cũng do những hạn chế của lịch sử giáo dục để lại. Trong bối cảnh mới, không cho phép thanh niên chậm trễ, nhất là đối với người trẻ, vốn luôn được tin cậy là lực lượng xung kích trên mọi mặt trận, việc học tập tốt ngoại ngữ chắc chắn là một cánh cửa thiết yếu để thanh niên và dân tộc Việt Nam hội nhập thành công.

Ths. Phạm Thạch Hoàng

Ở cấp tiểu học [lớp 3-5], việc dạy học Tiếng Anh giúp học sinh bước đầu hình thành và phát triển năng lực giao tiếp thông qua bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, chú trọng nhiều hơn đến hai kỹ năng nghe và nói.

Ở cấp THCS, việc dạy học Tiếng Anh tiếp tục giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giao tiếp, đồng thời phát triển năng lực tư duy và nâng cao sự hiểu biết của học sinh về văn hoá, xã hội của các quốc gia trên thế giới cũng như hiểu biết sâu hơn về văn hoá, xã hội của dân tộc mình.

Ở cấp THPT, việc dạy học Tiếng Anh giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp bằng tiếng Anh dựa trên nền tảng chương trình Tiếng Anh các cấp tiểu học và trung học cơ sở, trang bị cho học sinh kỹ năng học tập suốt đời để không ngừng học tập và phát triển năng lực làm việc trong tương lai.

Hệ thống các chủ điểm, chủ đề

Nội dung dạy học trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh được thiết kế theo kết cấu đa thành phần, bao gồm: hệ thống các chủ điểm [khái quát], các chủ đề [cụ thể]; các năng lực giao tiếp liên quan đến các chủ điểm, chủ đề; danh mục kiến thức ngôn ngữ [ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp]. Nội dung văn hoá được dạy học lồng ghép, tích hợp trong hệ thống các chủ điểm, chủ đề.

Về hệ thống chủ điểm: Nội dung Chương trình GDPT môn Tiếng Anh được xây dựng trên cơ sở các chủ điểm phù hợp với mỗi cấp học. Các chủ điểm liên quan chặt chẽ với nhau và được thiết kế lặp lại có mở rộng qua các năm học ở mỗi cấp học, theo hướng đồng tâm xoắn ốc nhằm củng cố và phát triển năng lực giao tiếp của học sinh.

Tên gọi của các chủ điểm có thể được thay đổi theo cấp học nhằm đáp ứng nhu cầu, mối quan tâm, hứng thú của học sinh cũng như yêu cầu hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết cho người học.

Các chủ điểm gợi ý trong dạy học môn Tiếng Anh ở các cấp học là: Cấp tiểu học [Em và những người bạn của em, Em và trường học của em, Em và gia đình em, Em và thế giới quanh em]; cấp THCS [Cộng đồng của chúng ta, Di sản của chúng ta, Thế giới của chúng ta, Tầm nhìn tương lai]; cấp THPT [Cuộc sống của chúng ta, Xã hội của chúng ta, Môi trường của chúng ta, Tương lai của chúng ta].

Hệ thống chủ đề được xây dựng trên cơ sở các chủ điểm. Mỗi chủ điểm bao gồm nhiều chủ đề để có thể bao phủ 1155 tiết học. Các chủ điểm và chủ đề có mối liên quan chặt chẽ với nhau, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và môi trường sinh hoạt, học tập của học sinh.

Các chủ đề được lựa chọn theo hướng mở, phù hợp với các giá trị văn hoá, xã hội của Việt Nam, đảm bảo tính hội nhập quốc tế và phù hợp với yêu cầu phát triển năng lực giao tiếp quy định cho mỗi cấp học.

Người biên soạn tài liệu dạy học và giáo viên có thể điều chỉnh, bổ sung các chủ đề sao cho phù hợp với chủ điểm, đáp ứng nhu cầu, sở thích và khả năng học tập của học sinh để đạt được các mục tiêu đề ra trong Chương trình.

Quy định lại vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy - học

Phương pháp giáo dục chủ đạo trong Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh là đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp. Đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp cho phép sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau, nhấn mạnh vào việc hình thành và phát triển năng lực giao tiếp của học sinh, vào khả năng sử dụng các quy tắc ngữ pháp để tạo ra các câu đúng và phù hợp thông qua các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.

Đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp có những điểm tương đồng với đường hướng lấy người học làm trung tâm trong giáo dục học. Hai đường hướng chủ đạo này quy định lại vai trò của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy - học.

Trong đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp, giáo viên đảm nhiệm nhiều vai trò, trong đó bốn vai trò sau đây được cho là nổi bật: người dạy học và nhà giáo dục; người cố vấn; người tham gia vào quá trình học tập; người học và người nghiên cứu.

Những vai trò đã nêu trên đòi hỏi giáo viên có trách nhiệm xây dựng ý thức học tập cho học sinh, giúp học sinh ý thức được trách nhiệm của mình với tư cách là những người học và về mục đích học tập của mình, giúp học sinh lựa chọn các phương pháp học tập phù hợp, giúp học sinh có quan niệm toàn diện về thế nào là biết một ngoại ngữ.

Khía cạnh thứ nhất liên quan đến việc xây dựng động cơ học ngoại ngữ đúng đắn cho học sinh, những cố gắng mà các em sẵn sàng bỏ ra để học tập, thái độ của các em đối với tiếng Anh.

Khía cạnh thứ hai bao gồm việc giúp học sinh phát triển sự hiểu biết của mình về việc học tiếng Anh nhằm những mục đích gì, trên cơ sở đó đề ra những mục tiêu phù hợp trong từng giai đoạn học tập.

Khía cạnh thứ ba liên quan đến việc giúp học sinh xây dựng phong cách hay phương pháp học đúng đắn, có các chiến lược học tập phù hợp để đạt kết quả học tập cao nhất và các hoạt động khác nhau có thể thúc đẩy quá trình học tập trên lớp cũng như ở ngoài lớp.

Khía cạnh thứ tư yêu cầu giáo viên, thông qua giảng dạy, giúp học sinh hiểu được khái niệm “thế nào là biết một ngoại ngữ”; nghĩa là ngôn ngữ được cấu tạo và sử dụng như thế nào trong các tình huống giao tiếp.

Trong đường hướng dạy ngôn ngữ giao tiếp, học sinh phải được tạo điều kiện tối đa để thực sự trở thành người đàm phán tích cực và có hiệu quả với chính mình trong quá trình học tập, người đàm phán tích cực và có hiệu quả với các thành viên trong nhóm và trong lớp học, người tham gia vào môi trường cộng tác dạy - học.

Điều kiện thực hiện Chương trình

Để việc thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh đạt hiệu quả, cần bảo đảm các điều kiện cơ bản về giáo viên, cơ sở vật chất.

Cụ thể, đảm bảo đủ số lượng giáo viên để thực hiện đủ số tiết học theo kế hoạch dạy học ở trường phổ thông. Giáo viên phải đạt chuẩn năng lực tiếng Anh và năng lực sư phạm phù hợp với cấp học theo quy định của Bộ GD&ĐT.

Giáo viên phải được tập huấn đầy đủ để triển khai Chương trình này. Đối với giáo viên đã đạt chuẩn nghiệp vụ, công tác bồi dưỡng giáo viên cần được tổ chức thường xuyên để thực hiện đúng mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học do Chương trình quy định.

Giáo viên cần được tập huấn về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và sử dụng các trang thiết bị hiện đại trong dạy học; cần được bồi dưỡng năng lực đánh giá sách giáo khoa, tài liệu dạy học nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra quy định cho mỗi cấp học.

Các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng giáo viên Tiếng Anh cần tham khảo Chương trình giáo dục phổ thông môn Tiếng Anh để đảm bảo chương trình đào tạo, bồi dưỡng sát với yêu cầu thực tế.

Cần tạo điều kiện bồi dưỡng cho giáo viên về năng lực thiết kế các hoạt động đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ phù hợp, hỗ trợ học sinh phát triển năng lực giao tiếp theo các cấp độ của Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng 53 cho Việt Nam.

Về cơ sở vật chất: Đảm bảo các điều kiện tối thiểu về sách giáo khoa, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị theo quy định của Bộ GD&ĐT.

Những trường có điều kiện cần nối mạng Internet, trang bị máy tính, màn hình và đầu chiếu, phần mềm dạy học tiếng Anh; khuyến khích sử dụng thiết bị công nghệ thông tin hỗ trợ việc dạy học tiếng Anh. Số lượng học sinh cho một lớp học không vượt quá quy định của Bộ GD&ĐT.

Video liên quan

Chủ Đề