Đối thoại trong tố tụng hành chính là gì

Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 và Nghị quyết số 104/2015/QH13 về việc thi hành Luật tố tụng hành chính được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 quy định nhiều nội dung mới so với Luật tố tụng hành chính năm 2010. Trong đó có quy định về việc thực hiện thủ tục đối thoại là thủ tục tố tụng bắt buộc phải thực hiện khi giải quyết vụ án hành chính.

Do tính đặc thù của lĩnh vực hành chính với quan hệ một bên là cơ quan hành chính Nhà nước thi hành quyền lực hành chính công và một bên là cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu sự điều hành quản lý, nên Luật tố tụng hành chính không quy định nguyên tắc hoà giải như khi giải quyết các vụ việc dân sự. Khi giải quyết vụ án hành chính Tòa án thực hiện thủ tục đối thoạiđể tạo điều kiện cho các đương sự [người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan] gặp gỡ trao đổi trực tiếp với nhau, để hiểu biết nhau hơn, làm rõ được những nguyên nhân của những khác biệt trong nhận thức, những sai sót, hạn chế trong công tác quản lý Nhà nước[nếu có]. Cũng thông qua đâyngười khởi kiện có thể hiểu rõ hơn về những quy định pháp luậtliên quan đến việc khởi kiện, từ đó các bên có thể điđến những quan điểm đồng nhất, làm giảm hoặc giải quyết được mâu thuẫn, xung đột, có thể tự giải quyết với nhau, người khởi kiện có thể rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện, người bị kiện có thể sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, hành vi hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.Qua đógiúp quá trình giải quyết vụ án hành chính được nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí và công sức, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử. 

Điều 12 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 đã quy định về thủ tục đối thoại:

"Trong quá trình giải quyếtvụ án hành chính, Tòa án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án”. Nhưng theo như quy định trên thì đối thoại không phải là thủ tục bắt buộc nên thực tiễn việc thực hiện thủ tục đối thoại gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và có cách hiểu, cách áp dụng khác nhau. 

Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trên thì Luật tố tụng hành chính năm 2015đã quy định đối thoại là thủ tục bắt buộc quy định cụ thể tại Điều 20 "Tòa án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết các vụ án theo quy định của Luật này”. Đồng thời Luật tố tụng hành chính năm 2015 cũng đã bổ sung mới các quy định về nguyên tắc đối thoại; về những vụ án không tiến hành đối thoại được; về thông báo phiên họp đối thoại; thành phần, thủ tục đối thoại; biên bản đối thoại và xử lý kết quả đối thoại[quy định tại các điều từ Điều 134 đến Điều 140].

Với quy định mới và cụ thể hơn về đối thoại trong Luật tố tụng hành chính năm 2015 sẽ tạo cơ chế hòa giải giữa các bên, kết quả đối thoại được coi là một trong các căn cứ để giải quyết vụ án, hạn chế việc phải mở phiên tòa đồng thời đảo đảm tính hiệu quả của cơ chế đối thoại trong thực tiễn khi giải quyết các vụ án hành chính./.

Nguyễn Thị Bộ - Viện KSND huyện Tân Yên

Áp dụng Điều 134, Điều 135, Điều 138, Điều 139 Bộ luật tố tụng hành chính:

Nguyên tắc đối thoại:

1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 của Luật này.

2. Việc đối thoại phải được tiến hành theo các nguyên tắc sau đây:

a] Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự;

b] Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ;

c] Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

Những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được:

1. Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

2. Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng.

3. Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại.

Trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại:

1. Trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phiên họp báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên họp đã được Tòa án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên họp kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia, phổ biến cho đương sự biết quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật này.

2. Khi tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và hỏi đương sự về những vấn đề sau đây:

a] Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, sửa đổi, bổ sung, thay thế, rút yêu cầu khởi kiện; yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết;

b] Việc giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác;

c] Việc bổ sung tài liệu, chứng cứ, đề nghị Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ, triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa;

d] Vấn đề khác mà đương sự thấy cần thiết.

3. Sau khi các đương sự trình bày xong, Thẩm phán xem xét các ý kiến, giải quyết các đề nghị của đương sự quy định tại khoản 2 Điều này; trường hợp đương sự vắng mặt thì Tòa án thông báo kết quả phiên họp cho họ.

4. Sau khi tiến hành xong việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều này, Thẩm phán tiến hành thủ tục đối thoại như sau:

a] Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án;

b] Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải quyết vụ án [nếu có];

c] Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án [nếu có];

d] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ [nếu có];

đ] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham gia phiên họp đối thoại [nếu có] phát biểu ý kiến;

e] Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó. Thẩm phán có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết định việc giải quyết vụ án;

g] Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất;

h] Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất.

5. Thư ký phiên họp ghi biên bản về diễn biến phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại.

Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký phiên họp ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản phiên họp ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên họp và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.

Lưu ý: Bài viết nêu trên là ý kiến tư vấn của Luật sư, Luật gia, Chuyên gia pháp lý uy tín, giàu kinh nghiệm thuộc Hãng Luật Lâm Trí Việt. Tuy nhiên, nội dung bài viết chỉ mang tính chất định hướng, tham khảo vì lý do vụ việc cụ thể của mỗi Khách hàng có điểm khác biệt hoặc các văn bản pháp luật dẫn chiếu có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm Khách hàng tham khảo bài viết. Quý Khách hàng không nên tự ý áp dụng văn bản hoặc bài viết khi chưa có ý kiến chính thức của Luật sư. Quý Khách hàng vui lòng liên hệ với Luật sư qua Đường dây nóng Luật sư: 0868 518 136 – 098 445 3801 hoặc Email:

Đối thoại là một thủ tục trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, việc thực hiện thủ tục đối thoại giúp cho giải quyết vụ án được nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí và công sức, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử. Bài viết hôm nay chúng tôi sẽ trình bày trình tự thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính.

1. Đối thoại trong tố tụng hành chính là gì?

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm trong tố tụng hành chính, Tòa án tiến hành đối thoại nhằm giúp các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không thể tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được thể hiện được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 của Luật này

Những trường hợp không thể tiến hành đối thoại được như sau: “Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt; Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng; Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại”.

Đối thoại trong tố tụng hành chính.

Nguyên tắc của tổ chức đối thoại như sau:

  • Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự;
  • Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ;
  • Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

2. Trình tự, thủ tục tổ chức đối thoại trong tố tụng hành chính

2.1. Thông báo về phiên họp đối thoại

Điều 136 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định về việc thông báo phiên họp đối thoại như sau: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm thông báo phiên họp đối thoại đến với người có liên quan trong vụ án;

Nội dung thông báo bao gồm thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại;

Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.

2.2. Thành phần tham gia phiên họp

Thành phần phiên họp đối thoại được quy định cụ thể tại Điều 137 Luật tố tụng hành chính 2015 gồm có:

  • Thẩm phán, chủ trì phiên họp
  • Thư ký phiên họp ghi biên bản;
  • Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự;
  • Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự [nếu có];
  • Người phiên dịch [nếu có].

2.3. Trình tự phiên họp đối thoại

Điều 138 Luật Tố tụng Hành chính 2015 quy định về trình tự thực hiện phiên họp đối thoại như sau:

  • Thẩm phán chủ trì phiên họp xác minh sự có mặt của những người tham gia và phổ biến cho tất cả các bên liên quan về quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Luật này.
  • Các đương sự trình bày ý kiến bổ sung của mình. Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất
  • Thẩm phán kết luận những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất.
  • Thư ký phiên họp ghi biên bản về diễn biến phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại.

2.4. Biên bản phiên họp

Tại Điều 139 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định với nội dung biên bản như sau:

  • Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp;
  • Địa điểm tiến hành phiên họp;
  • Thành phần tham gia phiên họp;
  • Ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự;
  • Nội dung đã được đương sự thống nhất, không thống nhất.

Những người tham gia có quyền đọc biên bản và yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung nếu có sai sót hoặc thiếu thông tin đã đối thoại.

Thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính.

3. Những diễn biến pháp lý diễn ra sau khi đối thoại kết thúc

Nếu các bên đương sự vẫn giữ yêu cầu của mình trong quá trình đối thoại thì Thẩm phán phải tiến hành thủ tục để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.

Nếu người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện và người khởi kiện được quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn.

Nếu đối thoại thành công, tức bên bị kiện rút lại quyết định bị khởi kiện, và người kiện rút đơn kiện thì tòa án lập biên bản về việc cam kết của đương sự.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các đương sự không thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án.

Video liên quan

Chủ Đề