Hàm cầu tiền giao dịch và dự phòng

Cầu tiền tệ [tiếng Anh: Demand for money] là toàn bộ lượng tiền mà các tác nhân trong nền kinh tế muốn giữ để thỏa mãn nhu cầu trao đổi, thanh toán và tích lũy giá trị. Sự ưa thích tiền mặt đã dẫn đến động cơ của việc giữ tiền của các chủ thể trong nền kinh tế.

Hình minh họa. Nguồn: all-free-download

Định nghĩa

Cầu tiền tệ trong tiếng Anh là Demand for money. Cầu tiền tệ là toàn bộ lượng tiền mà các tác nhân trong nền kinh tế muốn giữ để thỏa mãn nhu cầu trao đổi, thanh toán và tích lũy giá trị.

Những động cơ chủ yếu của việc giữ tiền

Có ba động cơ cho việc giữ tiền đó là: động cơ về giao dịch, động cơ về dự phòng và động cơ đầu cơ.

Động cơ về giao dịch

Do thời điểm thu chi về tiền của các tác nhân kinh tế lệch nhau do đó cần phải giữ tiền để giao dịch.

Số lượng tiền cần giữ để giao dịch thường đúng bằng lượng giá trị hàng hóa cần thiết cho cuộc sống và cho các trao đổi trong một thời gian, đây là lượng tiền thực tế [Mr hay MS] và nó được xác định bằng lượng tiền danh nghĩa [Mn] chia cho mức giá chung [P] theo công thức:

Mr = Mn/P

Động cơ về dự phòng

Trong một thế giới bất định, thường người ta giữ tiền vì động cơ dự phòng. Chúng ta quyết định giữ trước một khoản tiền để đáp ứng những chi tiêu bất thường mà chúng ta không thể nào lường hết được. 

Việc dự phòng một số lượng tiền chủ yếu nhằm đáp ứng hai mục đích dự phòng để có thể chờ đón được những khoản lời bất ngờ, hoặc là để chi phí cho những rủi ro bất thường.

Động cơ đầu cơ [Động cơ về tài sản]

Chúng ta biết rằng mỗi cá nhân thường quyết định giữ tài sản của mình dưới ba dạng: tiền mặt, tài sản tài chính và tài sản thực. Một loại tài sản sinh ra một mức lãi suất khác nhau và đồng thời nó cũng có mức rủi ro khác nhau. 

Để giảm thiểu rủi ro và mang lại lợi ích cao nhất, con người sẽ giữ tài sản của họ dưới nhiều dạng khác nhau. Mặc dù tính trung bình danh mục đầu tư này sẽ kiếm được một tỉ lệ lợi tức thấp hơn, song có thể giúp chúng ta tránh được những thảm họa khốc liệt không lường trước.

[Tài liệu tham khảo: Giáo trình Kinh tế vĩ mô, NXB Tài chính; Giáo trình Kinh tế học, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân]

Minh Lan


___________________________________________________________________


1.Mức cầu tiền

1. 1. Khái niệm cầu tiền

- Cầu tiền [LP] là lượng tiền mà mọi người muốn nắm giữ. Lượng tiền nắm giữ có thể là tiền mặt ngoài Ngân hàng hoặc tiền gửi sử dụng Séc.

- Theo John Maynard Keynes, có ba động cơ làm cho mỗi người chúng ta muốn nắm giữ tiền: động cơ giao dịch [transactions demand for money], động cơ dự phòng [precautionary demand for money] và động cơ đầu cơ [speculative demand for money]. Lượng tiền nắm giữ nhiều hay ít phụ thuộc vào hai yếu tố: lãi suất và thu nhập.

1. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ:

1.2.1. Lãi suất

            Lãi suất là cái giá phải trả khi vay tiền, hay nói chính xác hơn là cái giá phải trả khi nắm giữ tiền trong tay.

            Đối với cầu giao dịch dự phòng, khi lãi suất tăng thì cầu tiền để giao dịch và dự phòng sẽ giảm. Lý do là khi giữ tiền trong tay người ta phải chịu một khoản chi phí cơ hội, cho dù đó là tiền mặt hay tiền trong tài khoản séc. Chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất mà lẽ ra bạn có thể được hưởng bằng cách này hay cách khác, nếu như không giữ tiền. Như vậy, khi lãi suất

càng cao thì chi phí cơ hội càng lớn. Lúc đó người ta càng ít muốn giữ tiền trong tay, tức là cầu về tiền để giao dịch và dự phòng giảm.

            Đối với cầu đầu cơ, theo Keynes thì lãi suất tăng cũng làm giảm cầu về tiền để đầu cơ.

            Tóm lại, cầu về tiền nghịch biến với lãi suất.

1.2.2. Thu nhập thực tế [sản lượng]

            Đối với cầu giao dịch dự phòng, sản lượng tăng làm cho cầu về tiền để giao dịch và dự phòng tăng. Vì Y tăng => YD tăng C=> tăng => Lượng tiền nắm giữ hàng ngày cũng phải tăng theo. Mặt khác, Y tăng làm cho hộ gia đình có khuynh hướng để tiền dự phòng nhiều hơn, làm tăng cầu về tiền để dự phòng.

            Đối với cầu đầu cơ, sản lượng tăng cũng làm tăng cầu đầu cơ. Bởi vì, thu nhập tăng sẽ làm tăng nguồn tiền cất giữ như một loại tài sản. Do đó, cầu đầu cơ tăng khi sản lượng tăng.

1.2.3. Hàm cầu tiền

Quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu tiền được gọi là hàm cầu về tiền. Phương trình đường cầu tiền có dạng:

LP = k.Y - h.i

k,h là các hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối với thu nhập và lãi suất.

Đồ thị:


Đồ thị cho biết:

Khi thu nhập tăng tới Y1 thì LP dịch chuyển đến LP1. Tức là cùng với mức lãi suất io nhưng cầu về tiền lớn hơn [LP1>LPo] khi thu nhập tăng lên [Y1>Yo].

2. Cân bằng thị trường tiền tệ

- Thị trường tiền tệ cân bằng khi: MS  = LP


Đồ thị cho thấy: - Eo là điểm cân bằng của thị trường tiền tệ.

- Tại mức lãi suất cân bằng io mức cầu tiền vừa đúng bằng     mức cung tiền.

            Ở mức lãi suất thấp hơn i0 sẽ có mức dư cung trái phiếu tương ứng làm cho giá trái phiếu giảm xuống, lợi tức trái phiếu tăng lên và đẩy lãi suất thị trường lên tới i0.

            Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu sẽ làm thay đổi vị trí cân bằng của thị trường tiền tệ.

            Đồ thị dưới cho biết:


            Khi NHTW tác động đến mức cung tiền, giả sử là bán trái phiếu hoặc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến lượng cung tiền giảm xuống, đường cung tiền sẽ dịch chuyển từ M0 sang M1 và lãi suất cân bằng sẽ từ io lên i1.

            Giảm cung tiền từ Mo => M1 dẫn đến lãi suất tăng lên để giảm mức dư cầu tiền do mức cung tiền giảm đi.

            Khi thu nhập thực tế GNPr tăng lên => nhu cầu tiền cho giao dịch tăng lên. Với mỗi mức lãi suất, lợi ích cận biên của việc gửi tiền tăng lên và làm tăng mức cầu tiền thực tế, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển từ LPo => LP1. Với mức cung tiền M1, lãi suất cân bằng sẽ dịch chuyển từ i1 đến i2 điểm cân bằng mới của thị trường tiền tệ là E”.

Việc kiểm soát tiền tệ thực tế phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô là rất khó. Có hai cách kiểm soát, hoặc là kiểm soát mức cung tiền thì lãi suất thị trường sẽ lên xuống bởi tác động của cầu, hoặc kiểm soát lãi suất [ổn định lãi suất] thì buộc phải để lực lượng thị trường quyết định mức cung tiền. Cả hai cách đều gặp những khó khăn nhất định như khi kiểm soát lượng tiền cơ sở H thì vấp phải vấn đề hạn chế tiền mặt và tín dụng gây khó khăn cho hoạt động NHTM và các hoạt động giao dịch, khi kiểm soát LS lại gặp khó khăn trong nhận biết chính xác đường cầu tiền và sự dịch chuyển của nó,…

Bài viết liên quan : cân bằng, cầu tiền, Kinh tế vĩ mô, ngân hàng trung ương, nhân tố ảnh hường, thị trường tiền tệ

Nhu cầu về tiền để dự phòng hay cầu tiền dự phòng [precautionary demand for money] là trong phân tích của Keynes, đây là nhu cầu về số dư tiền tệ của các cá nhân và doanh nghiệp nhằm đối phó với tính bất định của các giao dịch kinh tế, tức những tình huống bất trắc, không thể dự đoán được trong tương lai. Cầu tiền dự phòng phụ thuộc vào quy mô giao dịch [hay thu nhập] và tính bất định của các giao dịch tương lai. Trong quá trình xây dựng hàm cầu tiền, nhu cầu dự phòng và các nhu cầu giao dịch thường được khảo sát cùng với nhau vì cả hai đều là một hàm tăng thu nhập.

[Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân]

Nhu cầu về tiền để dự phòng phụ thuộc vào quy mô thu nhập, tính sẵn có của các loại tín dụng và lãi suất. Với thu nhập nhiều hơn, nhu cầu về tiền để dự phòng sẽ tăng lên vì có nhiều khả năng là sẽ trong thời gian tới sẽ có một khoản tiêu dùng bất ngờ về cả mặt thời gian và số lượng như mua những tài sản có giá trị cao hoặc tiêu dùng những dịch vụ xa xỉ hơn. Mặt khác, tín dụng càng sẵn sàng [ví dụ: hạn mức tín dụng của thẻ tín dụng trở nên cao hơn], thì càng ít cần phải giữ số dư tiền để đề phòng. Lãi suất cao hơn thể hiện chi phí cơ hội giữ tiền cao hơn vì bất kỳ lý do gì, kể cả lý do để dự phòng, và do đó dẫn đến việc nắm giữ tiền để phòng ngừa thấp hơn.

Video liên quan

Chủ Đề