Làm sao để hết bị kì thị vì hát dở

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

giờ lại bán cà-phê? Đây là một con đường tập trung rất nhiều tiệm cà-phê. Ngồi uống cà-phê, phì phà điếu thuốc, nghe nhạc và ngắm tranh là thú vui thanh lịch tao nhã của thanh niên Hà Nội bây giờ. Có vài quán cà-phê thay vì ngắm tranh lại cho ngắm... chim. Đây là chim có lông , có cánh và biết hót được để trong lồng đúng như câu “Chim qúy phải ở lồng son”. Chỉ trừ vài quán càphê có khách hàng “biến thái”, hầu hết các quán đều có tiếp viên là những cô gái nói năng nhỏ nhẹ dễ thương, ăn mặc cực kỳ ngắn “bảy phần da, ba phần vải” !

Ban đêm có những quán có chương trình ca nhạc với ca sĩ cơ hữu của quán hay ca nhạc “giao lưu”, khách hàng tình nguyện lên hát giúp vui. Dù hay dù dở cũng được nhiều tràng pháo tay tán thưởng, nhất là các cô bao giờ cũng được cổ vũ nhiệt tình với tiếng khua ly, gõ tách...

Những quán cà-phê ở Hàng Hành hay những câu lạc bộ ca nhạc ở quận Hoàn Kiếm nói chung là văn nghệ, trữ tình nhưng tao nhã và đứng đắn. Nhưng các quán ở khu Quảng Bá miệt Hồ Tây thì thả dàn, ăn chơi tới bến, có thể nói đây là khu Khâm Thiên được tái sinh. Ngày xưa khoảng đầu thế kỷ 20 vừa qua, dân chơi có tiền, xuống phố Khâm Thiên gần nhà ga Hà Nội để hút thuốc phiện, nghe hát ả đào. Các cô ả đào ngày xưa chắc “võ công thâm hậu” lắm nên làm nhiều anh hùng, văn nhân, thi sĩ như Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương, Tản Đà, Nguyễn Bính mê mệt, hết biết đường về! Hát Ả Đào do một hoặc hai cô đầu ngồi hát theo một thể thơ có vần điệu, khách thưởng thức thường là đàn ông ngồi đánh trống gọi là cầm chầu. Nghe tiếng trống gõ là biết khách có phải là dân chơi thứ thiệt hay không? Sau khi nghe các cô hát xong, khách mệt quá có thể nằm lăn ra hút vài “ngao” thuốc phiện. Tất cả diễn ra trong những căn phòng nên khách có chỗ giải trí riêng tư rất là thoải mái. Trong thời kỳ chiến tranh, khu vực Khâm Thiên này đã bị Mỹ ném bom tàn phá hết khiến môn hát ả đào cũng không còn đất dụng

Hát ả đào ngày trước đối với các cụ tiền bối không biết hay như thế nào nhưng đối với thế hệ bây giờ nghe qua như âm điệu


Page 3

í lên đồng. Do đó hát ả đào ngày nay được thay thế bằng karaoke. che

Hát karaoke cũng giống như hát ả đào, cũng hát trong phòng riêng ên

gọi là phòng VIP, cũng có các cô đầu bây giờ gọi là tiếp viên. N Nhưng khác một chỗ là các cô không hát mà là khách lại hát, thay tre vì cầm dùi trống gõ nhịp, giờ lại cầm micro hát bằng máy VCD E chứa tới mấy trăm bản nhạc: nhạc sau 75, nhạc vàng và cả nhạc Tàu!

Hà Nội về đêm còn nhiều cuộc vui khác, nhưng tôi lưu lại chỉ có 3 đêm, chỉ là cưỡi ngựa xem hoa, cố gắng ghi lại trung thực là những gì mắt thấy, tai nghe. Với tôi Hà Nội êm đềm, cổ xưa với R nhiều di tích lịch sử, thích hợp cho muốn tìm hiểu về cội nguồn 11 dân tộc Việt Nam. Con người Hà Nội đời sống tinh thần rất phong

phú: tin tưởng nhiều về thần linh nhiều khi đi đến mê tín dị đoan,

khi theo một tôn giáo nào họ có đức tin rất mạnh vào tôn giáo đó. ch Do đó miền Bắc có rất nhiều lễ hội, đình đám, rước kiệu đủ các

thứ khiến dân làng bận rộn quanh năm!

1 NHỮNG THẮNG CẢNH VÀ DI TÍCH KHÁC Ở MIỀN BẮC

Miền Bắc còn có những thắng cảnh cũng như di tích lịch sử khác tôi chưa đi nên không có dịp nói đến, xin liệt kê ra đây để 1 các bạn tuỳ nghi tham khảo:

- Lào Cai và Sapa trên dãy Hoàng Liên Sơn, nơi có ngọn Fansipan cao nhất Đông Dương (3,143 mét). Sapa do người Pháp xây, cũng giống như Đà-Lạt mát mẻ quanh năm. Người Dao và Hmong với áo quần sặc sỡ, khung cảnh núi non hùng vĩ, mây phủ rừng xanh khiến Sapa hấp dẫn du khách.

- Đền Hùng thuộc tỉnh Yên Bái, cách Hà Nội 100 cây số về hướng Tây Bắc. Nơi đây rất đông khách hành hương và dịp lễ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 Âm lịch). Ba ngôi đền được xây trên 3 cao độ khách nhau trên một ngọn đồi với những cổng tam quan dẫn vào đền.

- Chùa Thầy là một ngôi chùa cổ nhất được xây vào thế kỷ 11 cách Hà Nội 40 cây số về hướng Tây Nam tại làng Sài Sơn thuộc tỉnh Hà- Sơn-Bình.


Page 4

Chúng tôi lên đường đi lăng Tự Đức ở về hướng Tây Nam và cách Huế 5 cây số. Đường vào lăng hẹp hai bên đất đỏ, cây cối xanh tươi sũng nước um tùm nào tre, mít, nhãn, chuối chen lẫn những đồi thông. Mưa vẫn rơi, lâm râm không bao giờ dứt. Xe đậu trước cổng làng có tên là Vũ Khiêm Môn, cũng như các lăng tẩm và hoàng thành nhà Nguyễn bao giờ cũng quay về hướng Nam và xung quanh có tường cao rêu xanh bao bọc. Chúng tôi xuống xe và bước theo cô hướng dẫn viên Mai Lan, cô ta nai nịt gọn gàng nào áo tơi, dù, mũ len trong khi chúng tôi đầu trần đi ngoài mưa gió tả tơi như trong một bài ca tôi đã quên tựa:

Đường em đi hoa giăng ngập lối,

Đường anh về gió mưa tơi bời!Men theo lối đi trải đá, hai bên là những cây nhãn xanh tươi, những cây bông xứ già nua. Bên trái thế đất cao hơn là những cung điện cổ gồm nơi vua ăn ở, nghỉ ngơi trong thời gian xa lánh việc triều đình nhiễu nhương, khó xử. Bên phải là Hồ Lưu Khiêm với nhà thủy tạ Xung Nghiêm là nơi vua nghiền ngẫm sách vở và sáng tác thơ văn để vơi sầu.

Vua Tự Đức sinh năm 1829, cai trị đất nước 36 năm (18471883), lâu dài nhất trong triều đại nhà Nguyễn. Nhà vua theo đuổi chính sách các vua trước cấm đạo Thiên Chúa và thực thi nghiêm ngặt hơn. Trong khoảng thời gian từ 1848 đến 1860, đã hành quyết 25 nhà truyền giáo Tây Phương, 300 giáo sĩ Việt Nam và 30 ngàn giáo dân. Lấy lý do bảo vệ các giáo sĩ người Pháp, Pháp lấy thành Gia Định năm 1859. Năm 1862 vua Tự Đức phải ký hòa ước nhường 3 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp và ngưng việc cấm đạo. Thời gian sau đó, Pháp gây áp lực lên triều đình nhà Nguyễn, nhà vua còn đó nhưng dần dà mất chủ quyền. Sau khi vua Tự Đức mất, năm 1885 nhân Tôn Thất Thuyết dấy binh định đánh đồn Mang Cá, Pháp đánh Huế và năm sau chiếm luôn Hà Nội để lập ra liên bang Đông Dương gồm có 5 nước thuộc Liên Hiệp Pháp.

Thời gian trị vì của vua Tự Đức là thời kỳ đất nước ta phải chia cắt lãnh thổ cho ngoại bang, triều đình mất chủ quyền vì sức yếu, thế cô. Nền Nho học từ chương khoa bảng không cự nổi sức


Page 5

mạnh khoa học kỹ thuật của Tây Phương. Có thể vì chính sách thiếu khôn khéo, không nhìn xa thấy rộng. Nhà vua buồn bã, bỏ việc triều chính ra lăng ngâm thơ, đọc sách giải sầu. Người ta đọc được những bài thơ nói lên nỗi lòng của nhà vua cũng như tạ lỗi với các vua tiên tổ.

Chúng tôi đứng ở mái hiên Dũ Khiêm nhìn xuống hồ Tĩnh Tâm, mặt nước u buồn, phẳng lặng, mùa đông lá sen đã tàn lụi, nhà thủy tạ trầm tự soi bóng xuống mặt hồ. Phía sau là đồi thông với những cây thông già nổi bật trên nền trời u ám. Mưa vẫn rơi và dường như rơi mãi không ngừng, như khóc thương một đất nước đã từng chịu nhiều tang thương. Vong linh u buồn của nhà vua dường như vẫn còn lãng đãng đâu đây nơi lăng miếu nên cảnh vật, cây cối nơi đây rất trầm mặc, u buồn như lời thơ của Nguyễn Công Trứ:.

Kiếp sau xin chớ làm người

Làm cây thông đứng giữa trời reo! Chúng tôi leo lên những bậc thang để lên khu mộ phần. Trên sân gạch là những pho tượng các quan văn, theo hầu vua nơi bên kia thế giới. Theo cô Mai Lan, các pho tượng có vóc dáng nhỏ vì người ta tin rằng người cõi âm nhỏ hơn người cõi dương. Lần bước lên là ngôi nhà vuông đặt bia đá ghi công đức nhà vua.

Cuối cùng khu mộ phần là một khu đất lớn, có tường cao bao bọc, bên trong um tùm cây cối và những cây thông già. Áo quan nhà vua được chôn một nơi nào đó trong khu này, không ai được biết vì sợ có người đào lên, quấy động giấc an nghỉ nghìn thu của nhà vua. Bên đồi phía Bắc là lăng của hoàng hậu Lê Thiên Anh

và người con nuôi của nhà vua là Kiến Phúc. Vua Kiến Phúc nối | ngôi được vài tháng rồi cũng mất. Vua Tự Đức có tới 104 thứ phi nhưng không có con để nối ngôi.

Phía Nam cạnh khu mộ phần là khu cung điện nơi nhà vua | làm việc, nghỉ ngơi, giải trí. Được gọi là cung điện nhưng thật ra + là những căn nhà bình thường, nay vì thời gian đã trở nên đen đúa, 5 cũ kỹ. Trong đó có điện Hoa Khiêm và Lương Khiêm để tiếp kiến các


Page 6

nhà này là 9 đỉnh đồng to lớn được đúc từ 1835 đến 1837 theo lệnh của vua Minh Mạng. Các đỉnh đồng này được trang trí bông hoa, núi đồi, sông rạch và cầm thú tượng trưng cho sự thống nhất và giàu đẹp của đất nước. Theo cô Mai Lan cho biết nhiều người ngoại quốc trông thấy các “chậu đồng có chân cao” này nghĩ rằng đó là những vật dầu sôi to để nấu những kẻ chống lại triều đình! Cạnh 9 đỉnh đồng đi ngược về hướng Bắc là Thế Miếu cất năm 1821, nơi đặt bàn thờ 10 vị vua Nguyễn, trong đó không có vua Dục Đức và Hiệp Hòa vì 2 vị này thời gian trị vì quá ngắn ngủi. Trong tương lai không biết vua Bảo Đại có được thờ tại Thế Miếu hay không?

Trong năm qua UNESCO, Tổ Chức Văn Hóa của Liên Hiệp Quốc công nhận hoàng thành Huế là di tích văn hóa lịch sử của thế giới. Khi chúng tôi đến đây công tác tu bổ đang tiến hành. Mặc dù không thấy nhân công vì trời mưa nhưng những vật liệu còn bày biện ngổn ngang. Người ta đang lót gạch lại, những lối đi trong hoàng thành. Nếu có kinh phí dự án sẽ lần lượt xây cất lại tất cả những cung điện đã có từ trước. Những kiến trúc còn lại hiện giờ chỉ là một phần tư kiến trúc nguyên thủy. Hư hao, sụp đổ vì thời gian, thời tiết lụt lội gần như hàng năm và phần lớn do chiến tranh thiêu rụi nhất là trận chiến Tết Mậu Thân. Đồ đạc, vật dụng ngày xưa trong các cung điện bị đánh cắp và lưu lạc khắp nơi. Để xây dựng lại và phục hồi đúng theo kiểu cách ngày xưa, nhiều chuyên viên đã sang tận bên Pháp thu thập các hình ảnh, tài liệu trong các thư viện, văn khố. Người Pháp có vẻ thích Huế nên mới đây đã tài trợ hàng trăm ngàn mỹ kim để thành phố Huế tổ chức Huế Festival 2000. Mặc dù kết quả số du khách đến tham dự không đông đảo như ước muốn. Là người Việt Nam, chúng ta lúc nào cũng mong muốn Huế sớm được hồi phục. Trang điểm lại dáng dấp mỹ miều, cho thế giới thấy rằng hoàng cung của vua nước ta ngày trước cũng huy hoàng tráng lệ và có những nét độc đáo riêng của mình.

Hiện nay những bãi đất trong thành nội nơi xưa kia là cung nguy nga, nay um tùm cỏ dại. Nhiều nơi người ta trồng rau cải,


Page 7

1 “bình thân” mới được ngồi. Một vị quan già, chắc là nhân viên

của khách sạn, chúc mừng vua và hoàng hậu trường thọ đồng thời mời nhà vua có đôi lời với quan khách dự tiệc hôm nay. Vua còn

rất trẻ chào mừng quan khách lại có pha tiếng Mỹ. Có một nhóm | truyền hình Đức gồm hai đàn ông và một bà tới Huế đã mấy ngày

nay và cùng ngụ trong khách sạn Hương Giang nhưng chưa có cơ hội quay phim Tiệc Cung Đình với vua quan là người Việt Nam, vì những ngày trước toàn là khách Tây Âu. Hôm nay mới được dịp

quay phim. Họ thâu rất chi tiết từ cách bày trí thức ăn, cách ăn | uống của người Việt Nam. Đèn thâu hình do một chuyên viên ánh

sáng cầm sáng rực làm buổi dạ tiệc chúng tôi thêm phần long trọng.

Trên bàn bày biện chén đĩa kiểu đôi đũa ngà, một chung rượu nhỏ có màu đỏ của rượu chát và ly cô-ca hay ly bia tùy người thích. Các chiêu đãi viên mặc quốc phục áo dài mang “cao lương,

“ mỹ vị” tới. Món đầu tiên là món “Nem Công, Chả Phượng”. Nem chua làm bằng thịt heo và chả làm bằng trứng vịt, nấm mèo và bún tàu giống như trong món cơm tấm bì chả nhưng đổ khuôn có hình con công màu vàng và được trang điểm xung quanh bằng cà rốt đỏ. Những món kế tiếp là vài ba món ăn thông thường không có gì đặc biệt và kết thúc bằng mỗi người một đĩa Cơm Âm Phủ với bì trứng chiên xắc sợi nhỏ và thịt nướng. Tiệc Cung Đình kết thúc, mấy chàng trai trẻ tuổi than: “Tiệc vua gì ăn không no!” Tôi trấn an: “Vua thường ăn rất ít, tàn tiệc mình ra ngoài kiếm bún bò Huế hay chè cháo ăn thêm!”

Ban nhạc gồm bốn nhạc công sử dụng những nhạc khí cổ truyền như đàn nhị, đàn cò, độc huyền và giàn trống. Ca viên có bốn cô áo dài, khăn vành, duyên dáng, thùy mị. Trên môi lúc nào cũng nở nụ cười. Mỗi khi ngừng hát ngồi khép nép, mắt nhìn xuống sàn nhà. Bản hòa tấu đầu tiên thường là bài “Lưu Thủy Kim Tiền” sau đó là các bài “Mưa trên Phố Huế”, “Ai ra xứ Huế”, “Huế đẹp

và thơ”... Trong kho tàng ca nhạc Việt Nam, Huế là thành phố có - nhiều bài hát ca tụng nhất. Các cô ca viên sử dụng khéo léo những

nhạc cụ như 4 tách trà, thoăn thoắt gõ vào nhau trên đôi “bàn tay


Page 8

Chúng tôi cho xe quay đầu trở lại, qua cầu Thạch Hãn và vào Quảng Trị Quảng Trị sau trận chiến 1972 thì đã bị san bằng thành bình địa. Tuy nhiên tôi vẫn còn nhìn thấy vài căn phố quanh chị khá xưa cũ và hiện nay người ta đã tu bổ trở lại và tiếp tục buôn bán. Có những dãy nhà bị bom đạn chỉ còn lại những bức tường nhưng vẫn để vậy, mặc cho cỏ dại mọc trên nền nhà. Chợ thì đã cất lại chợ mới và người ta buôn bán như một chợ quận ở miền Nam, Quảng Trị rất nhỏ, chỉ có một con đường duy nhất có phố xi buôn bán là con đường từ quốc lộ 1 ngang qua chợ để vào Có Thành Quảng Trị.

Xe chúng tôi đậu bên ngoài công Cổ Thành và bằng con đường đất, trời đang mưa nên lầy lội, chúng tôi đi bộ vào Có Thành. Sau cánh cổng sắt mở toang là một đụn gạch đóng rêu đen to lớn, đó là di tích duy nhất còn lại của Cổ thành Quảng Trị Thành Quảng Trị được xây cùng thời với kinh thành Huế khoản năm 1804, là thành ngoại biên bảo vệ cho thành Huế. Nhưng thành Quảng Trị là bãi chiến trường rất khốc liệt trong trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Hai bên giành cổ thành để cắm cờ và con số binh sĩ đã chết tại khu đất rộng 6 héc-ta lên tới khoảng 20 ngày người! Số bom đạn chưa nổ nằm trong lòng đất còn rất nhiều Người ta đã rà bom đạn và lấy lên gom lại hơn một chục tấn. Tuy nhiên chỉ bảo đảm đến độ 6 tất mà thôi, dưới độ sâu đó có thể còI rất nhiều. Trong lúc rà và gỡ bom đạn tình cờ người ta tìm thấy ha khẩu thần công thời 1804 ở độ sâu 1 thước 2 và hiện được trưng bày ở trước ngôi nhà “Di Tích Thành Cổ Quảng Trị” ở gần cổng


Page 9

cối khá xanh tươi, có tre, có chuối và cây khuynh diệp, bạch đàn vùng này khá nhiều.

Ông lái xe chở tôi và anh bạn tên Đức, ngừng ở cổng và hai chúng tôi đi vào khuôn viên nhà thờ. Vương Cung Thánh Đường La-Vang đã đổ nát vì bom đạn, chỉ còn lại phần tháp chuông phía trước. Bên cạnh là ngôi nhà thờ tạm dường như lợp tôn, bên trong đặt tượng Đức Mẹ La-Vang mặc áo dài, đội khăn vành Huế, tay bồng Chúa Hài Đồng. Qua khoảng sân trồng cỏ khá rộng về hướng Nam nơi Đức Mẹ hiện ra là một kiến trúc bằng xi-măng xây hình những cây cổ thụ hình nấm có từ thời xây Vương Cung Thánh Đường, khoảng cuối thập niên 1950. Kiến trúc này nếu tôi không lầm là của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, tác giả của Dinh Độc Lập ở Sàigòn .

Trên một cây cổ thụ là tượng Đức Mẹ La-Vang, phía dưới là bệ thờ bằng xi-măng có ghi dòng chữ: “Đức Mẹ Hiện Ra Tại Đây Năm 1798”. Mặc dù trời mưa tầm tã nhưng cũng nhiều người tới cầu nguyện. Trên bệ thờ đầy những chậu hoa tươi khách hành hương mang đến dâng cúng. Theo truyền thuyết trong dân chúng, thời Chúa Nguyễn Quang Toản cấm đạo Thiên Chúa Giáo cũng là lúc bệnh dịch đang hoành hành. Một số người từ Huế chạy vào khu rừng này để ẩn trốn, tránh việc bắt đạo và cũng tránh bệnh dịch đang lây lan. Trong lúc đói khát, tuyệt vọng, Đức Mẹ đã hiện ra an ủi họ. Họ đã hái Lá Vùng để nấu nước uống và với đức tin mãnh liệt họ đã sống sót sau cơn hoạn nạn. Từ ngày 13 đến 15-81998 vừa qua, kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ hiện ra, hàng trăm ngàn người đã tụ họp về đây suốt 3 ngày đêm để dự lễ kỷ niệm với lòng thành kính.

Tôi và anh bạn trẻ Đức sau khi viếng qua ba nơi quan trọng nhất của thánh địa là: cây cổ thụ nơi Đức Mẹ hiện ra, nhà thờ tạm và thánh đường đổ nát mới bắt đầu đi tìm 6 người kia. Còn một nơi duy nhất là ngôi nhà khách hai tầng khá khang trang dường như mới vừa xây xong. Sở dĩ hai tầng, tôi nghĩ là để tránh lụt vì tầng phía dưới chỉ có cột, cầu thang mà không có tường, như kiểu nhà sàn. Đúng như tôi đoán, 6 người kia đang nói chuyện với cha


Page 10

VẤN VƯƠNG VỀ HUẾ

Những thành phố khác như Sài-gòn, Hà Nội cao ốc mọc đầy nhưng Huế vẫn vậy. Vẫn như trước đây, cũng vẫn chừng ấy ngôi nhà, chưa thấy cao ốc, buyn-đinh. Sau chiến cuộc Mậu Thân Huế trở nên rất buồn nhất là về ban đêm. Khi nắng chiều vừa tắt, tất cả mọi nhà đều đóng cửa, đường phố như giới nghiêm không bóng người qua lại. Những người khá giả họ đã dọn vô thẳng Sài-Gòn hay ít ra cũng vào Đà Nẵng. Quân nhân, công chức có nhiệm sở ở Huế nhưng gia đình họ cũng ở Đà Nẵng. Huế được xem như địa đầu giới tuyến.

Chiến tranh đã kết thúc 25 năm nhưng Huế vẫn mang một nỗi buồn muôn thuở. Huế tuy buồn nhưng đẹp và thơ. Thi sĩ Nguyễn Bính, người Bắc nhưng sống ở Huế và trong Nam rất lâu, đã nói về Huế như sau:

đây nước sông Hương
cây núi Ngự, đường Nam Giao
Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh
Thâm u một dãy hoàng thành
Đình suông con én không đành bay đi.

(Vài nét về Huế, 1941) Con gái Huế cũng vậy, đẹp kín đáo nhưng mang một buồn xa xăm trong đôi mắt. Đài các, đoan trang, thẹn thùng, e ấp nhưng cũng âm thầm tinh nghịch, hứa hẹn cuồng phong, bão nổi như dòng sông Hương hiền hòa nhưng cũng có lúc cuồng lưu, thác đổ. Các anh chàng Quảng Nam, Quảng Ngãi đã từng mất hồn vì những cô gái Huế:

Học trò xứ Quảng ra thi,

Thấy gái Huế chân đi không rời Làm quen được với các cô, anh chàng bèn thề non, hẹn biển:

Bao giờ cạn nước Đồng Nai

Nát chùa Thiên Mụ mới phải lời nguyền! Khi rời xa Huế, anh ta không quên nhắn gởi:


Page 11

Cầu Trường Tiền có 6 nhịp bằng sắt sơn màu bạc được chống đỡ bằng những trụ cầu xi-măng. Cầu được xây vào đầu thế kỷ 20 gần Sở Đúc Tiền Cắc (coin) của triều đình nhà Nguyễn nên có tên là cầu Trường Tiền. Cầu được vua Thành Thái khánh thành năm 1907 và cùng năm đó vua Thành Thái bị Pháp ép buộc phải thoái vị và đưa đi an trí ở Bạch Dinh Vũng Tàu. Pháp cho rằng nhà vua mắc bệnh tâm thần, nhưng thật ra vì làm vua mà không có thực quyền nên vua Thành Thái có nhiều cử chỉ chống đối lại khâm sứ Pháp. Trận chiến Mậu Thân (1968) cầu đã bị máy bay đánh sập một nhịp giữa nên thời đó mới có nhạc phẩm “Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy”. Vài tháng sau cầu đã được khẩn cấp sửa lại để lưu thông được tái lập nhưng vẫn chưa làm lại hai nhịp cầu hình vòng cung đã bị sập. Bây giờ cầu đã trở lại hình dáng nguyên thủy với 6 nhịp cong. Cầu mới Phú Xuân không rõ được xây năm nào, chắc chắn và rộng hơn nhưng không đẹp bằng cầu Trường Tiền vì không có những nhịp hình vòng cung:

Cầu cong như chiếc lược ngà, ,
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ.
Đôi bờ như cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình.

(Vài Nét Huế, Nguyễn Bính 1941) Sông Hương ngày xưa có tên là Lô Dung là con sông lớn nhất của tỉnh Thừa Thiên, tương truyền về phiá thượng nguồn dòng sông có loài hoa thạch thảo tỏa hương thơm nên mới có tên này. Với chiều dài trên 50 cây số, sông Hương gắn liền với nhiều địa danh nổi tiếng của đất Thần Kinh Sông Hương do hợp lưu của hai nhánh bắt nguồn trên dãy Trường Sơn ở về phía Nam của thành phố Huế. Nhánh thứ nhất có tên là Tả Trạch phát xuất từ Khe Ra

núi Trường Đông, quanh co lao xuống 55 thác ghềnh. Nhánh thứ hai có tên là Hữu Trạch, phát xuất từ núi Chấn Sơn đổ xuống 14 thác ghềnh và hợp với Tả Trạch ở Ngã Ba Bãng Lãng (Chợ Tuần) gần Lăng Minh Mạng để trở thành sông Hương. Từ Bãng Lãng


Page 12

đến đồi Vọng Cảnh sông chảy xuôi về hướng Tây Bắc, qua khỏi núi Ngọc Trản chuyển hẳn sang hướng Tây, vòng qua bãi Lương Quán sông trở mình qua hướng Đông, qua miếu Văn Thánh, chùa Thiên Mụ rồi bao quanh cồn Giả Viên để tiến vào kinh thành Huế. Ngang qua thành phố Huế thì sông Hương rộng khoảng 370 mét. Qua chợ Đông Ba sông chia làm hai nhánh bọc lấy Cồn Hến rồi từ đó đổ lên hướng Bắc. Tại Huế, sông Hương có hai phụ lưu từ hướng Nam đổ nước vào sông Hương. Đó là con sông Lợi Nông hay sông An Cựu “nắng đục mưa trong” được đào năm 1814 và sông Thọ Lộc chạy qua thôn Vỹ Dạ. Hàng năm cứ khoãng tháng 5 lúc đó Huế ít mưa nhất, thủy triều từ cửa Thuận An dâng ngược lên đến Cầu Giả Viên nên nước sông Hương có vị lơ lớ mặn. Năm 1837 vua Minh Mạng mới cho xây Đập Đá để nước mặn không chảy vào sông Thọ Lộc làm nhiễm mặn các cánh đồng phì nhiêu của huyện Hương Phú.

Mùa Hè nước sông Hương trong xanh có thể nhìn thấy những đám rong rêu dưới đáy. Dân Huế có câu: “Tháng Bảy nước nhảy lên bờ” để nói lên nạn lụt hàng năm vào những tháng mưa làm ngập cả kinh thành về vùng dưới hạ lưu, gây hư hỏng đường sá, nhà cửa và thiệt hại mùa màng. Năm qua Huế bị hai trận lụt cách nhau một tháng, thiệt hại nhân mạng lên đến vài trăm người vì bị nước cuốn đi. Năm 1804 Chúa Nguyễn Ánh dời đô về phía Nam và chọn vùng Phú Xuân để xây kinh thành Huế vì thấy đất đai tại đây màu mỡ, cây trái xanh tươi. Nhưng thời ấy chúa Nguyễn Ánh đâu có biết rằng đây là vùng đất thấp, rất dễ ngập lụt nếu mưa lớn liên tiếp nhiều ngày. Năm nào bị ngập lụt là năm sau đất đai lại thêm màu mỡ!

Qua kinh thành Huế, sông Hương chạy về hướng Bắc thêm 15 cây số nữa rồi đổ ra cửa Thuận An. Cửa Thuận An ít sóng vì được chân bên ngoài bằng những dãy cồn cát. Tàu thuyền từ biển trước khi vào cửa Thuận An phải qua dãy cồn cát này và vào một vùng đầm rất cạn. Những tàu lớn phải đi đúng tuyến luồng (channel) do dòng nước sông Hương đổ ra tạo nên một đường sâu hơn những nơi khác. Nếu không có bản đồ thủy đạo để định hướng tuyến luồng hoặc bị sóng đưa đẩy rất dễ mắc cạn. Nhắc đến cửa Thuận An tôi nhớ lại năm 1971 tàu đo đạc độ sâu có tên Tiên Sa của Nha Thủy Vận là sở tôi làm đã bị mắc cạn tại cửa Thuận An trong lúc đi đo đạc để lập đồ án nạo vét tuyến đường vào cửa Thuận An, không cách gì kéo ra được. Người ta cho rằng: ngừng rơi, không khí rất mát mẻ, trong lành và sảng khoái. Con thuyền rẽ nước trên mặt sông lăn tăn gợn sóng. Nhà cửa hai bên bờ nho nhỏ với những mảnh vườn riêng, cây lá xanh tươi. Có một vài biệt thự mới xây theo kiểu Tây Âu, tường trắng, ngói đỏ nằm gần bờ sông nhưng không thấy xây cầu tàu xuống sông. Có lẽ việc đi chơi thuyền người dân ở đây chưa nghĩ đến hay nhà nước không cho xây? Thuyền chạy độ nửa giờ thấp thoáng đàng xa bên tay mặt tháp chuông chùa Thiên Mụ đã ẩn hiện sau những hàng cây phượng vĩ. Tháp xây trên một voi đất cao nhô ra vì nơi đây con sông Hương uốn khúc gần 90 độ để đi về hướng Nam là phía thượng lưu của sông Hương. Từ bến thuyền đã đậu sẵn một vài con đò là những bậc thang bằng đá tảng đưa khách lên cổng sân chùa với 4 cột vuông tiêu biểu cho cổng tam quan sau khi băng qua một con lộ nhỏ tráng nhựa. Mấy chục bậc thang này vẫn còn nguyên vẹn sau trận lụt vừa qua nhưng hai bên là đất nên bị trôi lỡ nhưng nay đã được xây bằng đá và xi măng để bảo vệ bờ sông. Có lẽ vài cây phượng vĩ nằm gần bờ đã bị nước cuốn trôi. Từ dưới thuyền nhìn lên tháp Thiên Mụ là một bức tranh đẹp bao gồm trời, mây, sông nước, cây cối, chùa chiền. Tháp Thiên Mụ là biểu tượng cho Huế và cả miền Trung cũng như chùa Một Cột tượng trưng cho Hà Nội và lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt hoặc chợ Bến Thành hay nhà thờ Đức Bà biểu tượng cho Sài gòn, thủ đô miền Nam ngày trước.


Page 13

và đứng tràn ra cả ngoài sân điện. Tiếng chuông trống chập choạng theo tiếng xướng đọc một bài văn tế gì đó với ngôn ngữ thời xưa dùng nhiều Hán ngữ cộng thêm giọng ngân nga miền Huế nên tôi không hiểu bài xướng nói lên điều gì? Điện Hòn Chén là một nơi nổi tiếng về Lên Đồng, Đồng là tên gọi người chuyên hành nghề “nối nhịp tri âm” làm trung gian giữa âm dương cách trở, để thông ngôn giữa người sống và người chết. Người ta tin rằng hồn chết sẽ nhập vào xác của người Ngồi Đồng nên những gì ông hay bà Đồng nói là phản ánh ý của người đã chết. Đồng chẳng những biết hết chuyện quá khứ mà còn đoán được cả tương lai. Những người “cạo da đầu để cầu gia đạo” cũng nhờ Đồng và những người “chê số đời mà chơi số đề” cũng nhờ Đồng phán cho những con số

Phía sau điện là vách núi dựng đứng với nhiều cây cổ thụ mọc trên đó. Tôi lần bước qua am nhỏ bên cạnh, bàn thờ nhang khói nghi ngút nhưng không có ai khấn vái. Từ sân này nhìn xuống dòng sông Hương qua những thân cây cổ thụ, những con thuyền nho nhỏ bềnh bồng như chiếc lá tre.

Thuyền đưa chúng tôi trở lại gần Chùa Thiên Mụ, nơi đây xe buýt đã đậu sẵn để về Huế ăn bữa trưa nơi căn nhà gạch có những chậu mai vàng trước sân. Hướng dẫn viên Mai Hà hát tặng một bài từ giã chúng tôi:

Thuyền về Đại Lược
Duyên ngược Kim Long
Tới nơi đây chỗ rẽ của lòng

Gặp nhau còn biết trên sông bến nào? Và chúng tôi hứa hẹn năm sau sẽ trở lại:

Đường xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Yêu nhau anh cứ anh
Kệ Truông nhà Hồ, mặc phá Tam Giang.

(Chơi Huế, Tản Đà)


Page 14

Tôi xem qua bài thơ và nói với anh rằng tôi gởi đăng bài thơ anh lên báo ở hải ngoại. Anh ta nói: “Rất hân hạnh!” Xe chúng tôi xuống đèo, từ 500 thước cao xuống tới đồng bằng trong đoạn đường gần 10 cây số. Từ trên cao có thể nhìn thấy con đường ngoằn ngèo như rắn lượn phía dưới với những xe cộ đang bò chầm chậm. Dọc con đường là những cột điện cao thế bằng sắt, có lẽ đưa điện từ nhà máy thủy điện Hòa Bình ở ngoài Bắc vào Nam. Dọc phía Nam đèo Hải Vân tương đối thoai thoải và rừng cây thấp hơn. Ít cây cổ thụ mà thay vào đó nhiều lau sậy và ít đi những thác nước đổ xuống đường, có lẽ vì mưa ít hơn. Mưa đã thôi rơi và chúng tôi có thể nhìn thấy ánh mặt trời ở hướng Tây sau cụm mây xám. Đèo Hải Vân đã chia khí hậu hai miền hoàn toàn khác biệt: phía Bắc đèo, Thừa Thiên trong cơn mưa buồn bã nhưng bên này đèo, Đà Nẵng nắng ấm chan hoà. Đèo Hải Vân cũng chia giọng nói hai miền: Thừa Thiên nói giọng Huế trầm ấm nhẹ nhàng trong khi Đà Nẵng đi vào trong giọng nói cứng hơn và gần giống giọng miền Nam.

Đèo Hải Vân đã có từ thời nhà Lê và vua Lê Thánh Tôn, khi xa giá ngang qua đây thấy cảnh nước non hùng vĩ đã phong tặng là “Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan”. Đến đời nhà Nguyễn, vua Minh Mạng cho đúc 9 đỉnh đồng để trước Hiền-Lâm-Các trong đại nội Huế, để ghi khắc hình ảnh giang sơn gấm vóc và thống nhất từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau. Trên một đỉnh có đúc hình cảnh Đèo Hải Vân mà ngày nay chúng ta vẫn còn nhìn thấy. Vào thuở ấy đường đèo chỉ là một con đường đất, hai bên hãy còn hoang vu nhiều chim muốn cầm thú:

Chiều chiều gió thổi Ái Vân

Chim kêu ghềnh đá, ngẫm thân em buồn!

Chiều hôm dắt mẹ qua đèo

Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni! Chúng tôi vẫn tiếp tục đổ đèo, xe không cần đạp ga nữa mà lại đạp thắng mặc dù tài xế đã trả về số hai để kềm xe lại.


Page 15

sạn Hải Âu, Bạch Đằng, Sông Hàn, Hòa Bình. Phía trong thành phố là các khách sạn Green Bamboo, Pacific, Phương Đông, Điện Lực, Marco Polo. Những khách sạn vừa kể có giá phòng từ 30 đô la trở lên. Những khách sạn dưới giá đó là Hữu Nghị (68 phòng),

Đà Nẵng (103 phòng), Marble Mountain nằm cuối thành phố phía 1 Bắc và trong thành phố là Hải Vân, Thủ Đô, Thanh Thanh, Yến

Minh, Yến Thanh, Vinapha và Điện Biên. Những khách sạn vừa kể giá phòng từ 5 cho đến 20 đô-la tùy theo tiện nghi có máy lạnh và nước nóng hay không. Đoàn du lịch chúng tôi, quân số ngày càng rơi rớt, bây giờ chỉ

s còn lại 20 người trong khi lúc khởi hành qua tới Bangkok là 36 người. Một số chỉ đi Thái Lan rồi trở về Mỹ hoặc về thẳng Sàigòn, một số “đào ngũ” về với thân nhân ở Hà nội và Huế. Chúng tôi ngụ tại khách sạn Green Bamboo, đây là một khách sạn thuộc loại sang trọng mới vừa khánh thành năm rồi. Khách sạn tọa lạc

trên đường Phan Chu Trinh gồm có 6 tầng lầu với 42 phòng. Vừa 1 xuống xe là mấy anh xích lô chờ trước khách sạn mời lên xe để đi

dạo phố. Anh ta hỏi tôi ở đâu đến vì mới thấy chúng tôi anh ta

tưởng là khách du lịch Đài Loan nhưng sau đó nghe nói tiếng 7 Việt. Anh ta hơi ngạc nhiên vì chưa bao giờ thấy Việt kiều đi một

đoàn như vậy. Anh than vãn: “Ông thầy ở Mỹ chắc sung sướng

lắm? Tụi em cựu quân nhân ở lại triền miên đói khổ không biết 3 làm gì ăn!” Tôi cười: “Thấy dzậy mà không phải dzậy!” E Lấy phòng và tắm rửa xong xuôi, tôi xuống quầy tiếp tân 6 ngồi trước máy vi tính để liên lạc với gia đình ở California. Lần

liên lạc e-mail trước là ở Bãi Cháy, Vịnh Hạ Long hôm 26-1 trong khi hôm nay đã là 31-1-2000. Liên lạc bằng e-mail ít tốn kém vì chỉ trả tiền mướn máy ngay tại đây thôi, khỏi sợ hãng điện thoại tính tiền ẩu sau này. Thêm vào đó mình không cần thân nhân phải có mặt ở máy bên kia. Lúc nào rảnh thì mở máy lên đọc và đánh thư đi.

Á HỚT TÓC THANH NỮ

Sáu giờ chiều, ông trưởng đoàn dẫn tất cả mọi người đi hớt


Page 16

đen có treo những câu đối chữ Tàu, phía trên trần treo lủng lẳng những lồng đèn tròn. Bàn ghế cũng bằng gỗ đen được trãi khái bàn màu đỏ. Chén dĩa bằng sứ màu xanh lá mạ pha xám, đũa gõ mun đen. Các cô tiếp viên cũng mặc y phục Tàu. Lúc nào cũng đứng hầu phía sau để xem thực khách có cần điều chi hay không Các món ăn Tàu cũng thịt heo, cá, tôm, đậu hủ nhưng cách nấu nướng rất lạ miệng và cách bày trí món ăn khá lạ khiến tôi khôn biết là món gì. Đây là một nhà hàng rất đặc biệt gây cho tôi ấn tượng đẹp với Đà Nẵng. Nhưng tiếc một một điều là đêm đó có lẽ vì ngà ngà chai bia Đà Nẵng mà tôi quên mất việc lấy danh thiếp thương mại của tiệm ăn đó. Nhưng nếu các bạn có đến Đà Nẵng cứ nói khu hớt tóc và tiệm ăn Tàu gần đó là các bác tài taxi, xích lô biết ngay. Có đi xích lô ở Đà Nẵng và Huế, các du khách nên trả giá trước để tránh đi xong họ nói giá tên trời dưới đất có khi cả chục đô-la. Qua các tài liệu, tạp chí du lịch tôi đọc được, du khách ngoại quốc rất thích viếng thăm Đà Nẵng nhất là những cựu chiến binh Mỹ, từng một thời đóng quân tại Đà Nẵng. Nhưng họ rất thai phiền về tệ nạn làm tiền từ xe cộ, ăn uống cho tới khách sạn tạ Đà Nẵng. Thay vì trú ngụ ở Đà Nẵng để viếng Hội An thì bây già

ở họ thích trú ngụ ở Hội An mà viếng thăm Đà Nẵng.

LỊCH SỬ VÀ TIỀM NĂNG KINH TẾ

Ngược dòng thời gian, đất Đà Nẵng cũng như Thừa Thiên ngày xưa thuộc Chiêm Thành (Chàm) nằm trong Ô Lý mà vua

Ô Chế Mân dâng lên vua Trần Anh Tồn năm 1306 làm sính lễ để cưới em gái vua là Công Chúa Huyền Trân. Theo Cụ Hương Giang Thái Văn Kiểm, Đà Nẵng ngày xưa mang tên là Thạc Gián nhưng có người đọc nhầm là Tu Gián vì hai chữ Thạc và Tu trong chữ Hán viết gần giống nhau. Người Pháp viết qua tiếng Pháp thành Tourane, đó là tên của thành phố Đà Nẵng thời Pháp thuộc. CÒI địa danh Đà Nẵng bắt đầu chữ Đà, một thổ âm có nghĩa là sông suối.

Vịnh Đà Nẵng với địa lý thiên nhiên là một eo biển nằm khuất giữa dãy núi Hải Vân và Sơn Trà nên rất lặng sóng, là nơi


Page 17

chiêu đãi cả đoàn, đến khi đưa ra phi trường Đà Nẵng để về Sài Gòn thì thiếu máy bay, đoàn trưởng dẫn đa số đoàn viên về trước, tôi là đoàn phó cùng mười mấy người cuối danh sách ở lại ngụ tạm trong toà thị chính để chờ hôm sau máy bay ra đón. Tình hình chiến cuộc lúc đó rất căng thẳng, Đà Nẵng ban đêm rất vắng vẻ mang không khí chiến tranh chết chóc. Ông thị trưởng và vợ con chắc ngủ đầu bên ngoài, toà thị chính ban đêm vắng lặng chỉ có mười mấy công chức chúng tôi ngồi uống trà, trước mặt toà thị chính hai chiếc thiết-giáp M 113 chĩa mũi đại-bác về phiá bên kia sông Hàn càng làm cho chúng tôi thêm thắt thỏm.

Tôi trở về Sài Gòn rồi tháng 5-1974 lại lên đường qua Nhật tu nghiệp về ngành thủy đạo. Số tôi cứ đi hoài không phải vì tôi hay, tôi giỏi mà chắc là vì các xếp của tôi không muốn... thấy mặt tôi

nhà! Tháng 11-1974 trong lúc chiến sự ở quê nhà gia tăng, vài người bên Nhật bảo tôi xin gia hạn học thêm khoá kế tiếp. Những người này họ ở lại bên Nhật, sau 75 xin qua Mỹ tỵ nạn và 5 năm sau bảo lãnh vợ con qua. Tôi nhớ gia đình vợ con, “nhớ Sài Gòn mưa nhiều rồi lại nắng, nhớ món ăn quen, nhớ... đôi bàn chân” lên máy bay trở về để sau khi Sài Gòn thay tên, đổi chủ phải đóng ghe lặn lội vượt biên! Lý lịch công chức của tôi có nhiều điểm lạ, khoá nào cũng có mặt, tu nghiệp nước ngoài cũng đi, sau 75 tôi bị phòng nhân sự sở cũ trong chế độ mới kêu lên kêu xuống nhiều lần để giải thích về những chuyện đó. “Cây muốn lặng mà gió chẳng dừng” tôi bị dòng đời đưa đẩy chớ nào có muốn gì đâu! Hôm nay trở lại đây, cảnh cũ khiến tôi nhớ lại chuyện năm nào, giày dép còn có số huống chi con người, tuổi tôi theo tử vi tây phương là tuổi Bát Giải tượng trưng bằng con cua dã tràng nổi trôi lăn hụp theo dòng đời:

tràng se cát biển đông

Nhọc nhằn chẳng nên công cán ? Vẫn như ngày xưa, trước toà thị chính là cầu tàu xây thẳng ra sông, hai bên lan can là những cột đèn kiểu cổ Âu-châu. Xe qua nhà bưu-điện đã được xây mới và những gánh bún bò Huế ngày trước cách đây 27 năm tôi thường ăn vẫn còn đó. Đối diện nhà


Page 18

bản cấu tạo nên điạ-cầu là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Xe rẽ trái để vào ngọn Thủy-Sơn vì chỉ ngọn này mới có nhiều hang động, chùa chiền, con đường đi thẳng sẽ tới Hội-An. Con đường vào Thủy-Sơn hai bên là những cửa tiệm trưng bày các tượng điêu khắc bằng đá cẩm-thạch (marble). Nếu đi thêm non một cây số nữa sẽ ra tới bờ biển Non Nước mà lính Mỹ gọi là China Beach, nước xanh cát trắng. Nơi đây có khách-sạn Non Nuoc Resort Hotel đã từng tổ-chức thi lướt sóng (surfing) thế-giới vào năm 1993 mà giải nhất lên tới mấy chục ngàn đô-la. Mùa tắm biển tại đây từ tháng Ba cho tới tháng Tám, sau đó là mùa giông bão, trời lạnh và nhiều sóng lớn. (Trong mùa lạnh này những bãi biển miền Nam từ Mũi Né qua Vũng Tàu cho tới Phú Quốc không ảnh hưởng và quanh năm đều tắm được).

Xe chúng tôi đậu vào sân một cửa hàng điêu-khắc thuộc hàng lớn nhất trong khu này. Phiá trước cửa tiệm và ngoài sân lộ thiên trưng bày những tượng thật lớn có tượng cao bằng người thật như Phật Thích Ca ngồi thiền, Phật Bà Quan-Âm đứng trên toà sen, Phật Di-Lạc bụng phệ ngồi cười, Chúa Giê-su, Đức Mẹ Maria, Khổng Tử cho đến Long, Lân, Quy, Phụng tứ-quý linh-thiêng không ai thấy được và sao-y những tượng nổi tiếng La-Mã, Hy-Lạp như thần Vệ-Nữ thân-hình ngà-ngọc, Người Suy-Tư (The Thinker) cuồn cuộn bắp thịt trong tư thế như ngồi trên&bàn cầu. Trong khoảng sân này Đông Tây gặp nhau, tôn-giáo hoà-đồng, các lãnh-tụ đứng bên nhau trong tình thân-ái! Chúau buồn đứng bên Phật mỉn cười, Hồ Chí Minh vui cười đứng cạnh nữ thần tự do đang dơ cao ngọn đuốc. Trong một khoảng sân được che nắng vài thanh-niên trẻ đang đục đẽo biến những khối đá vô-tri thành những tác-phẩm nghệ-thuật như có hồn. Những người khác dùng giấy nhám hay mảnh vải để tô-chuốt, đánh bóng những bức tượng đã làm xong. Đá cẩm thạch hay còn gọi là hoa-cương tại đây thường có một trong bốn màu là trắng, xám đen, hồng và xanh lục. Trong những năm gần đây vì khai thác đá qúa rầm rộ bằng chất nổ khiến núi lở, đá mòn, phương-hại đến sinh-mạng và môi-trường nên hiện nay vùng Ngũ-Hành-Sơn nghiêm-cấm việc khai thác đá. Đá hoa-cương


Page 19

Thiên và Quảng Nam ngày nay.

Là người VN chúng ta cũng nên biết sơ qua về câu chuyện của Huyền-Trân, nàng công-chúa đã đem về cho đất nước ta hai tỉnh với nhiều danh thắng tuyệt đẹp trong đó có non nước NgũHành-Sơn. Qua tác-giả Thanh-Tòng trong quyển “Người Hùng Nước Việt” xuất-bản trước 1975, câu chuyện Huyền-Trân Công Chúa được tóm lượt như sau:

Vua Trần-Nhân-Tôn sau khi truyền ngôi lại cho con là TrầnAnh-Tôn đã rời việc triều-đình chỉ còn làm thái-thượng-hoàng và sau lại lui về ẩn tu tại núi Yên-Tử (Quảng-Yên). Tháng hai năm Tần-Sửu (1301) nhân vua Chiêm là Chế-Mân cử sứ-bộ qua thăm nước ta. Khi sứ-bộ lên đường trở về, Trần-Nhân-Tôn tháp-tùng để sang Chiêm viếng cảnh. Đi thuyền nửa tháng thì tới Chiêm Thành, khi yết-kiến Chế-Mân, Trần-Nhân-Tôn vận nâu-sòng, tay cầm bình-bát. Chiêm-Vương trân trọng tiếp ngài và thân hành đưa ngài quang-lâm, vãng-kiến các đền chùa, cố-đô, cổ miếu cùng các danh thắng xứ Chiêm Thành. Thấm thoát 9 tháng trôi qua,

Trần-NhânTồn tạ-từ vua Chiêm để trở về Yên-Tử. Trong buổi tiệc tiễn hành, Trần-Nhân-Tôn có hứa gả con gái mình là Huyền-Trân công chúa cho vua Chiêm vì biết đường tình-duyên của Chế-Mân có điều không toại:ý và cũng để nối tình thông-gia giữa hai nước mà trong quá-khứ có nhiều tranh-chấp.

Mùa Xuân năm kế tiếp (Nhâm-Dần 1302) vua Chiêm cử pháibộ đem lễ-vật cầu-hôn. Đến năm 1305, vua Chiêm giận hoànghậu Đan-Thư (Tapasi) vì hoàng-hậu đầu-độc đứa con trai của áiphi thứ 17. Chế-Mân định truất-phế Đan-Thư nên sai sứ-bộ đưa thư chánh-thức dâng châu Ô và châu Rí làm sính lễ và hứa tấnphong tân nương Huyền-Trân làm hoàng hậu nước Chiêm.

Triều đình nhà Trần bàn bạc lãnh ý của Thái-ThượngHoàng và vì quyền-lợi của quốc-gia, vua Anh Tôn thuận gả HuyềnTrân về đất Hời và cử Trấn-Khắc-Chung đại diện triều-đình, thốnglãnh đoàn đưa dâu về Chiêm Quốc. Trần-Khắc-Chung tên thật là Đức Chung, con của Tá-Thiên-Vương Trần-Đức-Việp (chú ruột vua Anh-Tôn) dan-díu với một nàng cung-nữ hầu cho Lý-Huệ


Page 20

Thị-xã Hội-An nằm bên bờ phía Bắc của sông Thu-Bồn, từng một thời là hải cảng quốc-tế của Việt-nam mở cửa giao-thương với thế-giới bên ngoài. Từ thế-kỷ 16, 17 với tên gọi xa xưa là ĐạiChiêm, Phố Hiến hay Faifoo, Hội-An là một thương cảng thịnhvượng, là trung-tâm buôn bán lớn của vùng Đông-Nam-Á. Ngày đó trên bến sông Thu-Bồn tấp-nập những thương thuyền của người Nhật-Bản, Trung-Quốc, Bồ Đào Nha, Ý Đại Lợi. Trên đường phố Hội-An nhộn-nhịp người mua kẻ bán nào tơ-lụa, vải vóc, trà, tiêu, thuốc Bắc v.v&Thương thuyền Trung-Quốc thuận buồm nương theo gió Bấc, cập bến vào mùa Xuân. Họ ở đây mua bán vài tháng chờ gió Nồm bắt đầu thổi là họ trở về vào mùa Hạ. Trước đó Hội-An là vùng đất Châu Rí của vương quốc Chàm cho đến năm 1306 thì thuộc vào lãnh-thổ Việt-nam qua cuộc hôn-nhân dịchủng giữa Chiêm-vương Chế-Mân và Huyền-Trân Công-Chúa.

Đến đầu thế kỷ 19, thương cảng Hội-An bắt đầu thưa thớt ghe thuyền một phần vì sự căng-thẳng giữa triều-đình nhà Nguyễn và người Âu-Châu, một phần vì cửa sông Thu-Bồn bắt đầu nông cạn nên ghe tàu khó vào bên trong lúc đó hải-cảng sông Hàn ĐàNẵng bắt đầu phát-triển thay thế dần cảng Hội-An.

Là nơi hội-tụ nhiều nền văn-hóa của nhiều sắc dân nên HộiAn là một vùng tuy ở đất Việt-nam nhưng mang kiến trúc, món ăn Nhật, Hoa. Nơi đó pha-trộn hài hòa các nền văn-hóa Việt, Chàm, Hoa, Nhật. Ngày nay Hội-An không còn là một thương-cảng mà được thế-giới biết đến như thành-phố cổ, nơi đó người dân vẫn sinh-sống ngay trong những di-tích lịch-sử gần như còn nguyên vẹn. Những căn phố cổ tường gạch, mái ngói âm-dương phủ rêu phong. Những chùa Tàu Quảng-Đông, Triều-Châu, Phúc-Kiến có lối kiến trúc giống hệt như bên Tàu với hoành-phi, câu đối, cột kèo chạm trổ tinh-vi. Những con đường hẹp đưa tới cây cầu Nhật


Page 21

xá, mọi người hai bên đường mỉm cười nhìn một đoàn xích lô nối đuôi nhau thành một hàng hơn 20 chiếc.

NHÀ BẢO-TÀNG VÀ CHÙA ÔNG

Bây giờ đã hơn một giờ chiều, nắng trưa cuối năm không gay-gắt mà lại vàng nhạt thêm gío mát từ biển thổi vào rất thoảimái và dễ chịu. Trên con đường Nguyễn-Huế đi về phía chợ người ta mua bán tấp nập. Nơi đây có những nhà hàng mà bảng hiệu lại để là tiệm cà phê như “Café 20”, “Café 22”, lấy số nhà đặt tên. Có lẽ môn-bài đăng ký kinh doanh chỉ bán cà-phê để đóng thuế ít đi? Hầu hết thực-khách ngồi nơi quán cà phê là du-khách datrắng, đầu đội nón vải, chân mang giày bố, lưng đeo ba-lô. Họ ngồi nhâm nhi tách cà-phê trông có vẻ thảnh-thơi, nhàn-nhã. Bằng qua con đường Trần-Phú là tới chợ. Nếu đến đây sáng sớm dukhách sẽ thấy người ta đem cá tươi, tôm sống từ dưới ghe lên. Chợ nhỏ nhưng cũng đầy đủ mọi thứ từ thịt thà, tôm cá, hoa qủa, rau cải bày biện coi cũng rất vui tươi, nhiều màu sắc. Sông Thu-Bồn sau chợ cũng nổi tiếng về loại cá hanh rất ngon thịt.

Chúng tôi vào xem nhà bảo-tàng văn-hóa và lịch-sử của HộiAn nằm ngay trước cửa chợ đối diện với các quán cà phê. Nơi đây trước kia là Chùa Quán-Âm nay dùng làm Nhà Bảo-Tàng, bán vé vào cửa để dân chúng vào xem cổ vật như tượng Chàm, hình ảnh, bản đồ, vật liệu dùng trong việc xây cất nhà cửa trong vùng. Bên cạnh Nhà Bảo-Tàng qua một khoảng sân có hòn-non xây trên ao cá vàng, chúng tôi qua Chùa Ông của người Quảng-Đông. Hai bên lối vào chánh điện có tượng hai con ngựa lớn như ngựa thật và hai hộ-vệ mặt mũi dữ-dằn. Một trong hai con có lẽ là con Xích Thố ngựa trung thành của Quan Công. Trên chánh-điện là tượng Quan-Công, một tướng bên Tàu thời Tam-Quốc, mặc chiến-bào, mặt đỏ, chân mày xếch và bộ râu đen dài. CHÙA PHƯỚC-KIẾN

Rời chùa Quảng-Đông chúng tôi lại vô chùa Phước-Kiến. Chùa nào cũng cột gỗ đỏ, mái ngói cong nhưng chùa Phước-Kiến trang


Page 22

4 tượng. Chùa Cầu là một kiến-trúc Nhật khá độc đáo còn sót lại, là danh-thắng (landmark) tượng-trưng cho Hội-An.

Rời Chùa Cầu chúng tôi tiếp tục ngồi xích-lô đi dọc theo bờ sông trên con đường Bạch-Đằng. Buổi chiều cuối năm gần Tết là mùa thủy triều cường nên nước sông Thu-Bồn dâng cao, mấp mé gần tới mặt lộ. Du-khách Tây Phương ngồi trên thuyền máy chạy ngược xuôi trên dòng sông trông rất đông vui. Trên bờ phía bên kia con lộ là dãy phố xưa cũ, nay hầu hết là những quán ăn, tiệm cà-phê. Nổi tiếng nhất là tiệm Café Des Amis gần chợ đối diện với bến xuồng. Các tiệm này lúc nào cũng có du-khách Tây-Phương và họ thích thú là cứ ngồi xuống là có người đem thức ăn ra sẵn mà không cần phải chọn lựa món lôi thôi. Những món được dọn ra cũng là những món đặc sản của xứ Quảng như bánh bao, bánh vạc, mì Quảng, mì cao-lầu, cơm thịt heo nướng.

Khu phố cổ Hội-An từ Chùa Cầu và con đường Trần-Phú xuống tới bờ sông được UNESCO là Tổ-Chức Văn-Hóa của LiênHiệp-Quốc liệt vào Di-Sản Văn-Hóa Thế-Giới trong năm 1999 cùng với thánh-địa Mỹ-Sơn. Một dạo chủ những ngôi nhà trong khu này khác với nhau rằng: “Mình chẳng cần làm gì hết, mỗi năm Liên-Hiệp-Quốc sẽ cấp cho mỗi nhà vài ngàn đô-la để tu-bổ cho di-sản thế-giới!” Hiện nay dân-chúng Hội-An sống nhờ vào ngành du-lịch như tiệm ăn, nhà trọ, bán tranh, đồ kỷ-niệm, làm lồng đèn vải, tiệm thêu may. Mỗi đêm 14 âm-lịch toàn khu phố cổ tắt tất cả đèn điện mà chỉ thắp bằng đèn lồng trước của mỗi căn nhà. Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng bắt đầu từ mùa Thu 1998, nhằm làm sống lại thời kỳ xa xưa, phố xá ngày đó mà chủ nhân là người Trung-Hoa và Nhật đều thắp đèn lồng trong khi người Việt dùng dĩa đèn dầu lạc. Đêm 14 hoa-đăng cả khu phố mang một vẻ lãng-mạng, lung-linh, huyền-ão. Mỗi nhà đều ngưng sử-dụng TV, đèn neon, đèn đường mà chỉ thắp đèn lồng, đèn dầu hoặc nến. Du-khách rất thích thú trong đêm hoa-đăng này và có ấn-tượng, kỷ-niệm khó quên khiến họ sẽ trở lại Hội-An nhiều lần nữa.


Page 23

CHUYẾN BAY VÀO SÀI GÒN

Chúng tôi lên xe trở lại thành-phố Đà-Nẵng vào lúc 5 giờ chiều. Vì chuyến bay vào Sài-Gòn cất cánh lúc 8 giờ tối nên còn vài tiếng đồng-hồ ở Đà-Nẵng. Xe đưa chúng tôi tới chợ Đà-Nẵng nằm bên bờ sông Hàn. Hôm nay 1-2-2000 đã là 26 tháng Chạp nên chợ Tết rất đông, bày bán la liệt đủ mọi mặt hàng. Một em bé gái cứ theo nài-nĩ tôi mua giùm một xấp phong bao lì-xì màu đỏ. Mặc dù chắc không dùng tới , tôi cũng mua giúp cho em. Chúng tôi đi loanh-quanh trong chợ xem người mua kẻ bán nhưng lúc nào cũng phải cảnh giác về nạn móc túi. Tiền bạc thì không mang theo nhiều, mất thì không đến nỗi nào nhưng giấy tờ mới là rắc rối. Đi nửa giờ chân cũng đã mỏi nên cả đoàn vào tiệm cà-phê uống nước. Các bà, các cô đòi ăn hột vịt lộn nên bà chủ tiệm càphê phải sai đứa con gái vào chợ mua vài chục hột. Sáu giờ rưỡi chúng tôi vào phi-trường Đà-Nẵng. Cân hành-lý và đóng tiền cước cho số hành-lý thặng dư vì mỗi người chỉ được mang theo 20 ki-lô mà thôi. Chúng tôi cũng lại đi bằng máy bay Airbus mới chở gần 200 hành-khách. Ngồi cạnh tôi là cô gái da trắng người Úc làm về quảng cáo, sang VN chơi 10 ngày. Cô ta cho biết đã đi Hội-An hết mấy ngày và trước đó từ Sài gòn ra Nha trang bằng xe đò nhưng xe lại hư dọc đường khiến cô ta phải đón xe khác rất vất vả. Cô cho rằng người VN rất thân-thiện, hiền lành và cô rất thích các món ăn Việt, món nào cũng ngon hết nhất là cà-phê sữa rất đậm đà. Chiều mai cô sẽ trở về Úc và mang theo nhiều kỷ niệm đẹp.

Phi-cơ đáp xuống Tần-Sơn-Nhứt lúc 9 giờ tối. Chúng tôi được xe đưa vào nhà ga quốc-nội, cũng rộng rãi nằm cạnh nhà ga quốc tế. Thân nhân đi đón vào hẳn bên trong nơi quày chờ lấy hành lý, nói cười inh ỏi. Vì đường bay nội địa nên không có khâu kiểm soát giấy tờ và hành-lý nhưng người vẫn toát mồ-hôi vì khí-hậu nóng bức khác hẳn với thời-tiết ngoài Bắc và miền Trung. Ông trưởng đoàn tổ-chức chuyến du-lịch có gọi điện-thoại để công-ty đem xe buýt ra đón. Tôi tìm được một chiếc xe đẩy và chất hànhlý lên định đẩy ra cửa nhưng một cô gái tới chận lại. Cô nói rằng trời tối rồi, đẩy ra ngoài sợ mất xe! Tôi hỏi vậy chớ xe này để làm cái gì? Chúng tôi phản đối, rốt cục cô cũng phải đi theo chúng tôi ra ngoài để thu xe lại. Cũng tội nghiệp cho cô gái, thân ốm yếu phải đẩy gần 20 chiếc xe vào lại nhà ga! Ngoài bãi đậu xe trời tối om, vài ngọn đèn leo lét không đủ sáng, xe buýt thì đậu tít ngoài xa nhờ có anh chàng làm cho hãng du-lịch tới đón chỉ cho chúng tôi tới chổ xe đậu.


Page 24

Vinh. Hiện anh rể tôi đang đứng dưới phòng tiếp tân của khách sạn. Tôi xuống gặp anh tôi và trước khi về quê tôi phải ghé phòng vé China Airlines để hỏi vé máy bay trở lại Los Angeles. Nơi đây cho biết vé của tôi là vé chờ đợi và đánh tên tôi cùng số điện thoại vào danh sách chờ, khi nào có chỗ thì sẽ cho tôi hay.

Trở về khách sạn lấy hai món hành lý, trả tiền phòng và kêu thêm một chiếc Honda ôm nữa vì taxi hay xe hơi thì sẽ rất khó qua cầu vì hai bên cầu xe kẹt 10 cây số mỗi bên! Hôm nay đã 27 tháng Chạp nên đường phố Saigòn rất nhiều xe cộ đủ mọi loại nhưng anh lái xe ôm luồn lách chạy rất nhanh. Nhiều khi anh ta

qua lối

ngược chiều lưu thông với vận tốc 50, 60 cây số một giờ! Vai quảy túi xách, tay vịn nón kết để khỏi bay, tay ôm anh chàng lái xe . Gió thổi bần bật và chân tôi gát trên cây để chân cũng run bần bật không biết vì mặt đường gợn sóng hay vì trong lòng đánh lô-tô?

Qua xa cảng Miền Tây, rời Bình Điền, xe gắn máy, xe hơi ào ào tuôn chạy, phun khói mù mịt. Ai cũng vội vã, muốn về quê để ăn Tết cho kịp hoặc đi cho xong công việc. Tới Bình Chánh cách cầu Bến Lứùc 10 cây số thì bắt đầu kẹt xe, cả hai chiều lưu thông xe cộ giành nhau từng tấc đường. Họ chạy cả xuống ruộng khô và một người đàn ông lọt luôn xuống ao cá! Lóp ngóp đẩy xe lên và vài người đến giúp anh ta. Xe di chuyển không được, phun khói cay nồng khiến tôi muốn ngộp thở và lồng ngực cảm thấy đau ran. Tôi bỏ xuống bờ ruộng để tìm chút không khí trong lành, ít có carbon monoxide thì thấy đỡ hơn. Tội nhất là hành khách trên những chiếc xe đò chật ních người. Xe không chạy được họ vẫn ngồi âm thầm chịu đựng và hít khói độc hại. Mấy hôm trước ở Quảng Trị tôi đã viếng Đại Lộ Kinh Hoàng những đoạn đường về quê hôm nay mới thực sự... kinh hoàng!Muốn trở lại Saigòn nhưng chị tôi đang đợi phía bên kia cầu và anh rể đi một chiếc Honda ôm khác lạc đâu mất. Nếu trở lại Saigòn, anh chị tôi sẽ không biết tôi đi đâu? Anh xe ôm thì “động viên” nói là gần tới rồi, qua khỏi cầu thì hết kẹt! Thôi đã lỡ lên lưng cọp thì phải cỡi vậy!

Bỗng đâu một đoàn quân xa từ Sài Gòn chạy xuống chớp đèn va hụ còi inh ỏi. Mở đường là hai chiếc mô-tô Harley với hai cảnh sát giao thông đội nón an toàn. Vì hướng về tỉnh kẹt cứng những xe nên họ chạy lấn qua phía ngược chiều và lạng qua, lạng lại, như muốn đâm vô những xe ngược chiều không chịu nép vào. Trong đoàn xe một chiếc Mercedes đen, kính xe nhuộm màu nên không thấy ai ngồi bên trong. Phía sau 5, 6 quân xa vận tải phủ kín vải nhà binh xanh nên cũng không biết chở những gì? Có lẽ một quan chức nào đó muốn về quê ăn Tết cho khỏi kẹt xe nên bày trò hụ còi như vậy? Đoàn quân xa vừa dứt, lập tức anh xe ôm chở tôi cùng với vài xe gắn máy khác nhập cuộc chạy bám đuôi theo đoàn công-voa. Nhờ “mượn gió bẻ măng, theo đóm ăn tàn” nên xe tôi chạy khá nhanh vượt qua những hàng xe hơi nằm án binh bất động . Chạy thêm vài cây số nữa thì chúng tôi qua cầu, mỗi lần một chiều được lưu thông mà thôi. Nhưng cận Tết xe cộ đông đảo lại thêm tinh thần “ai tôn trọng kỷ luật, người đó thiệt thòi” nên mới gây cảnh kẹt xe. Qua khỏi cầu lưu thông đỡ hơn nhưng hướng lên Sàigòn lại kẹt cứng như phía bên kia cầu. Chạy thêm 10 cây số nữa gần tới Tân An, xe tôi tấp vào cây xăng Phước Lộc Thọ thì chị tôi và đứa cháu gái ngồi trên xe Toyota van đang chờ. Anh rể tôi cũng mới vừa tới trước tôi vài phút. Tôi gặp lại chị tôi bao năm xa cách, phút giây hội ngộ bao giờ cũng nhiều xúc động. Ngày trước bỏ xứ ra đi tôi còn rất trẻ. Hôm nay trở lại vẫn... chưa già! Uống xong chai nước La Vie rồi vào trạm xăng rửa mặt, nhìn vào kiếng hai mắt tôi đã đỏ ngầu vì khói xe!


Page 25

Các tỉnh Cà-Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Rạch Giá, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa-Đéc, Cần Thơ, Trà Vinh muốn đi Sài-Gòn đều phải qua Vĩnh Long. Trong khi Trà Vinh là tỉnh cuối đường vì nằm cận biển. Trước khi vào Vĩnh Long, xe qua bến đò, nơi đây là ngã ba để đi vào Cần Thơ và các tỉnh khác. Qua cầu Lộ, cầu Lầu, những cây cầu xi-măng có từ thời Pháp với những ngọn đèn chụp xi-măng tròn như nón lính ngày xưa. Xe ngang qua chợ nằm cạnh bờ sông Tiền Giang với phố xá đông người qua lại vì cận Tết. Rồi ngôi trường Tống Phước Hiệp, vẫn ngôi tường vàng, nhắc tôi mùa thi ngày xưa với nhiều kỷ niệm. Năm đó lên Vĩnh Long thi, tôi ở trọ nhà của Châu Thanh Tâm con của ông giáo Út nhà cạnh bờ sông Cầu Lộ. Vì trùng tên, tôi và Châu Thanh Tâm ngồi thi sát nhau, có lẽ vì vậy mà ông giáo gởi thơ cho tôi ngỏ ý bảo tôi đến ở nhà ông. “Bác biết cháu và Thanh Tâm có thể sẽ ngồi gần nhau nên mời cháu đến ở nhà bác để hai đứa đi thi cho có bạn.” Hôm nay tôi trở lại Vĩnh Long, dừng xe lại, bước vào lối nhỏ dẫn đến căn nhà năm xưa tôi ở trọ khi đi thi. Ngày đó, căn nhà cạnh bờ sông rất đẹp, hoa nở đầy vườn. Vẫn căn nhà đó nhưng bây giờ là phòng mạch của một bác sĩ. Hỏi người lối xóm thì họ không biết và chỉ đến một bà cao tuổi là người “ở đây lâu năm nhất”. Bà cho biết Thanh Tâm đã vượt biên lâu lắm rồi và ông giáo cha nó cũng dọn lên Sài-Gòn, chắc sau đó cũng đi nước ngoài do nó bảo lãnh. Có những người bạn lâu năm không biết sống chết ra sao? Trở về hỏi thăm bắt lại liên lạc. Lắm lúc cùng ở một thành phố xứ

người nhưng gặp mặt nhau chưa chắc gì nhận ra nhau.

Xe rời Vĩnh Long chạy cặp bờ sông ngang lăng thờ cụ Phan Thanh Giản đồng thời cũng là Miếu Văn Thánh. Ngày trước thấy rõ con sông với những hàng dừa râm mát dọc theo con lộ đi về Trà Vinh. Giờ đây toàn là nhà cửa, những thân dừa còn lại lơ thơ, thấp thoáng phía sau những dãy nhà. Tới Ngã Tư Long Hồ, qua cầu nhìn bên kia sông vẫn còn còn ngôi nhà lầu cổ của một phú hộ người Tàu. Rồi đến Cầu Mới bắt ngang con sông MăngThít nối liền Tiền Giang và Hậu Giang. Sông này dưới thời VNCH (1955-1975) là ranh giới giữa Vĩnh Long và Trà Vinh. Hai bên sông Măng-Thít, người ta trồng sầu riêng và măng cụt vì con sông 1 này quanh năm nước ngọt, nước mặn phía Trà Vinh không lên tới - được. Ngang Vũng Liêm nổi tiếng về nem chua, bắt đầu thấy một 1 ngôi chùa Miên với những hàng cây thốt nốt, giống như loại cây


Page 26

(1955-1975), Trà Vinh đổi tên thành Vĩnh Bình và tỉnh lỵ là Phú Vinh.

ĐÓN TẾT Ở QUÊ NHÀ

Hôm nay đã là 29 tháng Chạp âm lịch, chỉ còn vài tiếng đồng hồ nữa sẽ bước sang năm mới Canh Thìn 2000. Đường phố Trà Vinh buổi sáng cuối năm thật nhiều xe cộ đa số là xe hai bánh vì tỉnh lẻ ít xe hơi. Ngày xưa khoãng xế trưa đường phố đã vắng vẻ, chợ bắt đầu dọn dẹp, người bán dọn hàng hóa về nhà để chuẩn bị cúng kiến rước ông bà và đón giao thừa. Cảnh chợ chiều 30 Tết mọi người hối hả, các người hốt rác khẩn trương dọn dẹp, họ muốn làm cho xong sớm để còn về với gia đình trong khi những người bán hoa, cây kiểng, dưa hấu, rau cải vẫn còn một mớ hàng chưa bán hết, cố nán lại phút nào hay phút nấy. Bên hối, bên khoan khiến cảnh chợ chiều 30 rất đặc biệt, đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố. Những người sắm Tết lúc này thường mua được hàng rẻ nhưng đôi lúc cũng xách giỏ không ra về nếu những năm thiếu hàng. Hoa Tết, dưa hấu, rau cải đôi khi không còn ai mua, người bán phải cho không nếu không muốn “chở củi về rừng”. Cảnh chợ chiều cuối năm hàng hóa tồn đọng bên cạnh các rến trông rất tang thương như cảnh những cửa hàng bên Mỹ “clearance sale” (bán tháo dẹp tiệm) đến lúc 75 phần giảm giá chỉ còn những món gãy gọng, sứt càng!

Nhưng chợ chiều cuối năm ngày nay không còn cảnh đó nữa. Những người bán từng đống dưa hấu trước nhà tôi vẫn bình thản ngồi bán. Tôi hỏi “Không về ăn Tết sao? Họ trả lời: “Chừng nào bán hết mới về!” Ngoài chợ vẫn còn người bán và xe cộ tuy

có giảm hơn ban sáng nhưng cũng còn tấp nập khác với ngày xưa, ; buổi chiều cuối năm rất vắng vẻ, phố xá đều đóng cửa, tiếng pháo : đì đẹt bắt đầu nổ và trống lân rộn rã vang vọng từ xóm Lò Heo

vọng ra. Chiều 30 ngày trước, các đoàn lân khai trương đều đến | múa Chùa Ông trước, sau đó ra Dinh Tỉnh Trưởng rồi về nghỉ,

hôm sau mùng một mới đi múa kiếm tiền. Họ múa cho đến rằm trong dịp các tiệm buôn khai trương mở cửa bán lại. Ngày trước