Người Việt quan niệm thế nào là đồng tiền sạch

Giới thiệu về cuốn sách này


Page 2

Giới thiệu về cuốn sách này

Giới thiệu về cuốn sách này

Người ta vẫn nói trong mỗi người Việt Nam không chỉ có một ông quan và một thi sĩ, chính xác hơn nữa phải kể thêm một nhà phân tích tài chính thực dụng.

Quay trở lại với bài ca dao đã bàn, người mẹ của cô gái tham đồng tiền Cảnh Hưng, tham những thứ vật chất rõ ràng đo đếm được, trong khi cô ước vọng một địa vị tiến thân nhờ con đường khoa cử của vị hôn thê - song mơ hồ:

"Chẳng tham ruộng cả ao điền

Chỉ tham cái bút cái nghiên anh đồ".

Mâu thuẫn trong ước vọng của giới bình dân phản ánh sự xung đột quan niệm giá trị của xã hội, hay chính là sự xung đột giữa danh và lợi.

Sự khao khát kiếm một tấm chồng làm nên danh phận còn khiến người phụ nữ coi việc nuôi chồng ăn học để đỗ đạt là bổn phận đương nhiên.

Dễ dàng để ta kể ra một câu chuyện cổ tích mà trong đó, cô thôn nữ ngày ngày chăn tằm dệt vải, đợi chờ cái cảnh đức lang quân vinh quy bái tổ, để rồi cô thành phu nhân của ông nghè ông cống.

Tiền bạc với họ, tất cả là để dành cho cái ngày mai đó: “Một quan là sáu trăm đồng / Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi” (Thời trước - Nguyễn Bính, 1936).

Người Việt quan niệm thế nào là đồng tiền sạch

Cảnh vinh quy bái tổ được thể hiện trong tranh sứ. Ảnh: Tranhsubattrang.

Chẳng những nuôi chồng, họ cũng có khi phải nuôi bạn chồng ăn học như nàng Châu Long, và tất nhiên “5 con với một chồng” như bà Tú Xương nổi tiếng.

Trong khi đó, ông Tú Xương nằm trong danh sách dài miên man những người đàn ông có tiếng tăm hay địa vị xã hội trong suốt chiều dài lịch sử trung đại mà ai nấy đều có những vần thơ để than nghèo.

Các tác gia từ quan đầu triều Nguyễn Trãi đến đại khoa Nguyễn Khuyến ai nấy đều có những câu thơ tả cảnh nhà đạm bạc như “Cơm rau nước lã miễn tri túc” hoặc “Năm gian nhà cỏ thấp le te”. Nguyễn Công Trứ còn có hẳn bài Than cảnh nghèo.

Nhưng biết đâu Trạng Trình hay Uy Viễn tướng công cũng nghèo thật, vào cái thời dân chúng đói ăn loạn lạc vì chiến tranh?

Xem ra, để minh định độ bần bạch của các vị túc nho xưa, chúng ta phải len lỏi trong một khu rừng ngôn từ nhiều uyển ngữ, ngẫm ra có phần thuộc về lối từ chương bảy phần thực ba phần hư.

Cách diễn đạt này phản ánh một nhân sinh quan pha trộn Nho Lão mà mỗi người đàn ông có học cần khoác lên mình một cái áo vô vi sẵn sàng phòng khi thất chí.

Khi mà mối quan hệ sĩ - nông quanh quẩn câu “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ”, thì cảnh một vị “rắp tâm treo ấn từ quan” sẵn sàng sống cuộc đời “tương cà gia bản” cũng không quá đỗi gây sốc.

Về làng xã, họ mặc nhiên vẫn thuộc về tầng lớp trên, được ngồi ở chiếu trên nơi đình làng. Trong tâm thế xã hội, vật chất là quan trọng (“có thực mới vực được đạo”) song khi phải nói những lời văn vẻ, chữ nghĩa được vận dụng thành phương tiện gột sạch cám dỗ của đồng tiền.

Vậy là có hai thế giới song song được vận hành xoắn quyện với nhau một cách tài tình trong xã hội Việt Nam. Một thế giới thanh bần, tiền bạc đứng ngoài, bên trong ai nấy tiên phong đạo cốt, “người quân tử ăn chẳng cầu no”.

Một thế giới rủng rỉnh tiếng kim loại, tràn ngập những câu châm ngôn dạy người ta về sức mạnh của đồng tiền: “Tiền tươi thóc thật”, “Đồng tiền đi liền khúc ruột”, “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”.

Con người Việt Nam tựa như quả lắc dao động giữa hai thế giới. Người ta vẫn nói trong mỗi người Việt Nam không chỉ có một ông quan và một thi sĩ, chính xác hơn nữa thì phải kể thêm một nhà phân tích tài chính thực dụng.

(TG) -Đồng tiền vốn là "đơn vị tiền tệ nhỏ nhất ở Việt Nam thời phong kiến" (, Trung tâm Từ điển học, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2020). Sở dĩ có chữ "đồng" cũng bởi tiền ngày xưa được đúc bằng đồng, một kim loại dễ gia công (đúc, dát mỏng, trang trí hoạ tiết), bền vững (dùng được lâu dài), có tính thẩm mĩ. Thực ra, người ta còn dùng các kim loại khác, như bạc hay kẽm để đúc tiền. Nhưng "đồng" vẫn là chất liệu phổ biến, tiện lợi hơn cả.

Người Việt quan niệm thế nào là đồng tiền sạch
Ảnh minh họa

Đồng tiền cũng còn dùng để chỉ đơn vị tiền tệ của quốc gia nào đó ().

Đồng tiền trước hết có vai trò trung gian, dùng để mua bán, trao đổi hàng hoá nói chung

Câu tục ngữ "Đồng tiền liền khúc ruột" hàm chứa một quan niệm của dân gian trong việc ứng xử với giá trị vật chất, tức là với đồng tiền.

Nguyễn Đức Dương (trong , nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2010) giải nghĩa câu này là: "Đồng tiền vốn gắn liền với khúc ruột của từng người (nên ai cũng thấy xót xa một khi tiền của bị hao mòn)".

Việt Chương (trong , quyển Thượng, nhà xuất bản Đồng Nai năm 2003) có cách giải thích sát thực hơn: "Đồng tiền không phải tự nhiên mà có, chính là do mồ hôi nước mắt, công sức của mình tạo ra. Vì vậy mới có chuyện "đồng tiền liền khúc ruột". Tiền của như vậy là do một phần thân xác hao hụt ra mới có, cho nên tiền mất là ruột đau xót biết chằng nào".

Đồng tiền được dùng để chỉ giá trị vật chất do con người làm ra từ sức lao động của chính mình. Có làm mới có tiền, có tiền mới có ăn và có tiền mới có những tiện ích phục vụ cuộc sống. Như vậy, đồng tiền có giá trị thường nhật, thiết thân đối với mỗi người. Chúng ta không đến nỗi sùng bái coi "đồng tiền mua tiên cũng được" nhưng chúng ta phải thừa nhận một điều, một cuộc sống thực sự hạnh phúc không thể không có tiền bạc. Ngạn ngữ phương Tây có câu: "Tiền không mua được hạnh phúc nhưng không thể hạnh phúc nếu thiếu tiền."

Đồng tiền có ý nghĩa thiết thân với mỗi người, gắn bó như “liền khúc ruột”. Ruột “phần của ống tiêu hoá kéo dài từ cuối dạ dày đến hậu môn” (, đã dẫn) là một phận rất quan trọng trong cơ thể mỗi người. Khi nói cha ruột, mẹ ruột, anh em ruột… là ta nói tới mối quan hệ gần gũi, máu mủ không thể tách rời trong một gia đình. Trong xã hội cũng vậy, nếu người ta chỉ mối quan hệ nào đó liên quan khăng khít tới cơ quan nội tạng này thì tức là người ta nhấn mạnh sự keo sơn gắn bó khó rời:. (Tố Hữu)

Suy rộng ra, đồng tiền của mỗi người cần phải quý trọng và tôn trọng.

Ta nhận đồng tiền của ai đó gửi trao () là ta phải biết trân trọng và gìn giữ. Nhưng không chỉ trân trọng, ta cần phải biết sử dụng sao cho có hiệu quả thiết thực.

Có người tham lam, cứ thấy đồng tiền là loá mắt, không phân biệt phải trái, bất chấp sự công minh của pháp luật ().

Có người nhập nhằng, không công bằng trong việc đóng góp, ăn chia ().

Có người nhập nhèm, không rõ ràng trong việc vay và trả, vay phải ra vay, cho phải ra cho ().

Khi ai đó đứng ra nhận tiền bạc, vật chất nhằm giúp cho những người nghèo khó, trong cơn thất cơ lỡ vận, người đó phải biết ứng xử sao cho phải (), sao cho kịp thời (), sao cho công tâm và công bằng (), sao cho nhân văn (), v.v. Nếu không thì đồng tiền nhân ái kia sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.

PGS. TS. Phạm Văn Tình

Người Việt quan niệm thế nào là đồng tiền sạch
Phóng to

Ông Nguyễn Khắc Thuần: “Cái xấu, lạc hậu đương nhiên sẽ bị đào thải. Chúng ta hãy nhìn vào cái đẹp để có một cuộc đời đẹp” - Ảnh: Tự Trung

- Có thể nói ngay rằng những hành vi đó là không có văn hóa, đã và sẽ không bao giờ được sự đồng cảm của bất cứ ai trong xã hội. Các “đại gia” đó trước hết đã gây thất vọng ngay cho chính những người thân của mình, là vợ, là con. Người Việt mình vốn trọng dư luận nên đó chính là hình phạt nặng nề nhất.

"Các lớp học về văn hóa sống, kỹ năng sống, văn hóa giao tiếp, văn hóa công sở... đang được rất nhiều công sở, doanh nghiệp chủ động tổ chức. Hãy nhìn tương lai từ những cố gắng rất đáng quý này, đừng quá bận tâm đến những hiện tượng xấu. Chỉ nhìn vào cái đẹp và luôn hướng về cái đẹp, chúng ta sẽ có một cuộc đời đẹp"

* Câu chuyện khơi mào cho dư luận lần này lại bắt đầu từ những viên chức nhà nước, những người được coi là có học thức, có địa vị trong xã hội. Qua đo lường dư luận trên mặt báo, nhiều người cho biết những hành vi không đẹp này đang ngày một phổ biến. Ông nghĩ thế nào về ý kiến “người giàu có quyền sử dụng tiền theo cách mình muốn”?

- Trước hết, về góc độ văn hóa, người ta xét một người có học không phụ thuộc bằng cấp của người ấy, xét sự sang trọng cũng không phụ thuộc tiền bạc của họ. Bằng cấp, địa vị không phải lúc nào cũng đồng hành và càng không phải lúc nào cũng tỉ lệ thuận với văn hóa. Đó không phải thứ để khoe, nhất là trong một xã hội đang phát triển, nhiều chuẩn mực cũ đang bị phá vỡ và chuẩn mực mới chưa kịp ổn định như hiện nay. Đã qua rồi thời bao cấp, thời đổ đồng ai cũng như ai.

Theo quy luật tất yếu của kinh tế thị trường, xã hội có người giàu và người nghèo. Người giàu có quyền ăn ngon, mặc đẹp, có quyền vui thú và tận hưởng những giá trị đặc biệt của cuộc sống. Nhưng biết thực hiện quyền ấy một cách tốt đẹp và tạo được những giá trị nhân văn khác thì lại phụ thuộc nhận thức văn hóa và kỹ năng sống.

Có những người rất giàu nhưng đời sống văn hóa lại thấp kém, họ không phân biệt được giá trị vật chất và giá trị tinh thần thiêng liêng của bản thân con người. Ở đây, chưa bàn đến tính minh bạch của đồng tiền, nhưng tôi tin rằng những ai kiếm được đồng tiền thơm tho nhất định cũng sẽ sử dụng một cách thơm tho. Ngược lại thì...

* Điều đó có đáng để một nhà nghiên cứu về văn hóa lo lắng không?

- Là ủy viên hội đồng thẩm định phong cách doanh nhân, tôi được biết rất nhiều doanh nhân vừa giàu về tiền của lại vừa giàu về nhân cách. Họ đẹp từ trang phục đến trang sức, từ ngôn ngữ đến hành vi, từ tổ chức cuộc sống gia đình đến xây dựng đời sống văn hóa công sở. Họ lịch lãm và đáng yêu.

Đặc biệt, họ luôn tự khẳng định trách nhiệm đối với xã hội, biết dành một khoản lợi nhuận không nhỏ để giúp đỡ những người còn khó khăn. Đa số họ cũng còn rất trẻ. Tôi luôn nhìn văn hóa dân tộc, nhìn tương lai đất nước bắt đầu từ họ và không quá bi quan trước những hiện tượng rất đáng chê trách như vừa rồi mà nhiều người vẫn tức giận cho là “văn hóa suy đồi”.

Văn hóa VN không suy đồi, chỉ có một bộ phận kém hiểu biết đã ngang nhiên bộc lộ sự tầm thường của mình.

* Hẳn ông cũng đã gặp nhiều câu chuyện về những màn ăn chơi hưởng lạc trong lịch sử. Người Việt xưa nhìn việc ấy như thế nào, ngoài đạo đức và dư luận xã hội, hành vi ấy có bị xem xét bởi pháp luật không?

- Người xưa ít khi tách đạo đức khỏi pháp luật. Nhiều vụ bất hiếu hoặc hoang dâm đều được đưa ra xét xử theo hình sự, những người được coi là có quyền làm “cha mẹ của dân” càng bị xử nặng. Sử chép chuyện Lý Long Xưởng (con trưởng hoàng đế Lý Anh Tông) vì hoang dâm nên bị truất ngôi thái tử, phế làm dân; hoàng đế Trần Anh Tông suýt bị thượng hoàng Trần Nhân Tông phế ngôi chỉ vì uống rượu đến say khướt trong cung.

Người xưa tuy cho phép “trai năm thê bảy thiếp” nhưng phải cưới hỏi đàng hoàng, người phụ nữ vẫn có chút danh phận. Pháp luật hiện hành quy định “một vợ một chồng”, vậy tại sao việc quan hệ không lành mạnh với người khác lại chỉ coi là vi phạm đạo đức?

Người xưa quan niệm “nam vô tửu như kỳ vô phong” nhưng hầu như ai cũng uống rất chừng mực. Mỗi bàn tiệc chỉ có một búp rượu (tương đương một xị), mỗi người chỉ uống một chén nhỏ như hạt mít và gọi là “nhắm rượu”, đúng nghĩa thưởng thức vị rượu ngon chứ không ép nhau uống hết chai này chai khác.

Luật xưa cũng quy định rất rõ không ai được vô cớ tổ chức uống rượu, lên công đường tuyệt đối không được đụng tới rượu, vi phạm sẽ bị nghiêm trị...

* Một nền văn hóa có bề dày khả kính như thế, tại sao lại dễ dàng xảy ra những hiện tượng lệch chuẩn trong đánh giá, thang giá trị bị đảo lộn như hiện giờ?

- Một bộ phận xã hội tuy có tài làm giàu nhưng lại chưa được trang bị những kiến thức văn hóa đủ để hội nhập vững vàng. Khi tiếp cận với văn hóa nước ngoài, những người không đủ tầm chỉ học được những mảnh vụn cực đoan và phản văn hóa, không đủ sức tiếp thu văn minh.

Môi trường văn hóa dân tộc bị chính những người này chở cặn bã và rác thải mà thiên hạ đã vứt bỏ về làm cho ô uế. Tiếc thay, đôi khi họ lại chính là những cán bộ đang giữ vị trí đòi hỏi sự mẫu mực.

Sau đó, lại có một số người khác, kể cả báo chí, do thiếu nhận thức và bản lĩnh nên đã vô tư quảng bá cho thứ rác thải nguy hiểm này. Có những trang báo say sưa phô bày những hình hài hở hang, hăng hái quảng cáo cho hàng hiệu. Không ít người trẻ bị choáng ngợp, chạy theo, nhận lầm giá trị hàng hóa với giá trị bản thân.

Người có tiền như các “đại gia” lại lấy sự mạnh tay xài tiền để chứng minh “đẳng cấp” mà không biết mình lạc hậu, như ông bà ta nói “phú quý giật lùi”...

Tuy nhiên, xin được nhấn mạnh lại là sự lệch lạc này chỉ có ở một số ít người. Những giá trị đích thực và lớn lao của văn hóa vẫn được đa số còn lại ra sức gìn giữ. Cái xấu, cái lạc hậu đương nhiên sẽ bị đào thải.

__________

Tin bài liên quan:

Đại gia và những kiểu nhậu "độc"Vụ ăn nhậu trên phà, một cô gái chết đuối: huyện ủy xác minh lại từ đầuThuê phà ăn nhậu, một cô gái chết đuốiCảnh cáo Đảng hai lãnh đạo VKSND huyện Cần Giuộc

Ông NGUYỄN KHẮC THUẦN