Nguồn gốc tự nhiên của ý thức là gì

3.Trình bày nguồn gốc, bản chất và cấu trúc của ý thức? Ý thức và nhận thức khác nhau thế nào? Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này?Trả lời:

Nguồn gốc:


- Có thể khái quát ý thức có hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.

+ Nguồn gốc tự nhiên: là bộ óc người [cơ quan phản ánh về thế giới vật chất xung quanh] cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc.
+ Nguồn gốc xã hội: là lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.

Nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
Bản chất: - Chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa trên cơ sở lí luận phản ánh: về bản chất, coi ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo; ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Đồng thời ý thức là một hiện tượng xã hội, sự ra đời, tồn tại của ý thức gắn liền với các hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ các quy luật sinh học mà chủ yếu là của quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực của con người quy định. Do đó ý thức mang bản chất xã hội.

Cấu trúc: [kết cấu]


- Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức tạp. Có nhiều cách tiếp cận để nghiên cứu về kết cấu của ý thức song ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu theo các yếu tố hợp thành và theo chiều sâu của nội tâm.

+ Theo các yếu tố hợp thành: Ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí..trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi. Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác nhau. Tình cảm là sự cảm động của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh và đối với bản thân mình. Tri thức kết hợp với tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí…

+ Theo chiều sâu của nội tâm: Ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức, vô thức.

Tự ý thức: trong quá trình nhận thức thế giới xung quanh, con người đồng thời cũng tự nhận thức bản thân mình. Như vậy, tự ý thức cũng là ý thức, là một thành tố quan trọng của ý thức, nhưng đây là ý thức về bản thân mình trong mối quan hệ với ý thức về thế giới bên ngoài. Tiềm thức: về thực chất, tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể, là ý thức dưới dạng tiềm tàng.

Vô thức: là những trạng thái tâm lí ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong, chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí. Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, trực giác…

Sự khác nhau giữa nhận thức và ý thức: - Ý thức và nhận thức đều là quá trình phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, nhưng quá trình nhận thức thì có phần tích cực, năng động, sáng tạo hơn dựa trên cơ sở thực tiễn khách quan.

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:


- Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu vấn đề này: - Thông qua việc nghiên cứu vấn đề này giúp con người tránh những hậu quả tiêu cực trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo đó phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực thế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. Nếu chỉ lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. Đồng thời ý thức cũng có thể tác động lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn thì con người phải phát huy tính năng động chủ quan của mình, phải phát huy vai trò nhân tố con người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ lại, ngồi chờ..

* Câu hỏi phụ hay: Từ lí luận chủ chủ nghĩa Mác - Lênin rút ra chủ trương ở nước ta hiện nay? Gợi ý: Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng chủ trương: "huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn lực của dân và công cuộc phát triển đất nước", muốn vậy phải "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"".

Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức

Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thứcnguồn gốc tự nhiênnguồn gốc xã hội.

– Nguồn gốc tự nhiên của ý thức

Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên của ý thức là bộ óc con người và hoạt động của nó cùng mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người từ đó tạo ra khả năng hình thành ý thức của con người về thế giới khách quan. Như vậy, ý thức chính là sự phản ánh của con người về thế giới khách quan.

Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trinh tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng. Phản ánh là thuộc tính của tất cả các dạng vật chất song phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: phản ánh vật lý, hoá học; phản ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sáng tạo [tức phản ánh ý thức]. Những hình thức này tương ứng với quá trình tiến hoá của vật chất tự nhiên.

+ Phản ánh vật lý, hoá học là hình thức thấp nhất, đặc trưng cho vật chất vô sinh. Phản ánh vật lý, hoá học thể hiện qua những biến đổi về cơ, lý, hoá [thay đổi kết cấu, vị trí, tính chất lý – hoá qua quá trình kết hợp, phân giải các chất] khi có sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các dạng vật chất vô sinh. Hình thức phản ánh này mang tính thụ động, chưa có định hướng lựa chọn của vật nhận tác động.

+ Phản ánh sinh học là hình thức phản ánh cao hơn, đặc trưng cho giới tự nhiên hữu sinh. Tương ứng với quá trình phát triển của giới tự nhiên hữu sinh, phản ánh sinh học được thể hiện qua tính kích thích, tính cảm ứng, phản xạ. Tính kích thích là phản ứng của thực vật và động vật bậc thấp bằng cách thay đổi chiều hướng sinh trưởng, phát triển, thay đổi màu sắc, thay đổi cấu trúc, v.v. khi nhận sự tác động trong môi trường sống. Tính cảm ứng là phản ứng của động vật có hệ thần kinh tạo ra năng lực cam giác, được thực hiện trên cơ sở điều khiển của quá trình thần kinh qua cơ chế phản xạ không điều kiện, khi có sự tác động từ bên ngoài môi trường lên cơ thể sống.

+ Phản ánh tâm lý là sự phản ánh đặc trưng cho động vật đã phát triển đến trình độ có hệ thần kinh trung ương, được thực hiện thông qua cơ chế phản xạ có điều kiện đối với những tác động của môi trường sống.

+ Phản ánh ý thức là hình thức phản ánh năng động, sáng tạo chỉ có ở con người. Đây là sự phản ánh có tính chủ động lựa chọn thông tin, xử lý thông tin để tạo ra những thông tin mới, phát hiện ý nghĩa của thông tin.

– Nguồn gốc xã hội của ý thức:

Nhân tố cơ bản nhất và trực tiếp nhất tạo thành nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động và ngôn ngữ.

+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người; là quá trình trong đó bản thân con người đóng vai trò môi giới, điều tiết sự trao đổi vật chất giữa mình với giới tự nhiên. Trong quá trình lao động, con người tác động vào thế giới khách quan làm thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của nó, biểu hiện thành những hiện tượng nhất định mà con người có thể quan sát được. Những hiện tượng ấy, thông qua hoạt động của các giác quan, tác động vào bộ óc người, thông qua hoạt động của bộ não con người, tạo ra khả năng hình thành nên những tri thức nói riêng và ý thức nói chung.

>>> Xem thêm: Vai trò của lao động đối với sự hình thành của ý thức

Như vậy, sự ra đời của ý thức chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan thông qua quá trình lao động.

+ Ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất” của ý thức, tức hình thức vật chất nhân tạo đóng vai trò thể hiện và lưu giữ các nội dung ý thức.

Sự ra đời của ngôn ngữ gắn liền với lao động. Lao động ngay từ đầu đã mang tính tập thể. Mối quan hệ giữa các thành viên trong lao động nảy sinh ở họ nhu cầu phải có phương tiện để giao tiếp, trao đổi tri thức, tình cảm, ý chí,… giữa các thành viên trong cộng đồng con người. Nhu cầu này làm cho ngôn ngữ nảy sinh và phát triển ngay trong quá trình lao động sản xuất cũng như trong sinh hoạt xã hội. Nhờ có ngôn ngữ, con người không chỉ giao tiếp, trao đổi trực tiếp mà còn có thể lưu giữ, truyền đạt nội dung ý thức từ thế hệ này sang thế hệ khác…

Bản chất của ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế giới vật chất.

– Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, là hình ảnh tinh thần chứ không phải là hình ảnh vật lý, vật chất như chủ nghĩa duy vật tầm thường quan niệm.

– Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo thế giới.

+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định. Nhu cầu đó đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu được cái được phản ánh. Trên cơ sở đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng đắn hơn hiện thực khách quan. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.

+ Phản ánh ý thức là sáng tạo, vì phản ánh đó bao giờ cũng dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất của ý thức có tính xã hội.

Quan điểm trên của triết học Mác về nguồn gốc và bản chất của ý thức hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy tâm coi ý thức, tư duy là cái có trước, sinh ra vật chất và chủ nghĩa duy vật tầm  thường coi ý thức là một dạng vật chất hoặc coi ý thức là sự phản ánh giản đơn, thụ động thế giới vật chất.

Ý nghĩa phương pháp luận

– Do ý thức chỉ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cần phải chống bệnh chủ quan duy ý chí.

– Do ý thức là sự phản ánh tự giác, sáng tạo hiện thực, nên cần chống tư tưởng thụ động và chủ nghĩa giáo điều xa rời thực tiễn.

Các tìm kiếm liên quan đến nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức, Ví dụ về bản chất của ý thức, Bản chất của ý thức, Kết cấu của ý thức, Nguồn gốc và bản chất của ý thức, Vai trò của ý thức, Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, Vật chất quyết định bản chất của ý thức, Vật chất và ý thức

Video liên quan

Chủ Đề