Phương pháp tổng hợp các hình phạt chính đối với phạm nhiều tội và có nhiều bản án là:

Mục lục bài viết

  • 1.Đang chấp hành hình phạt tù của tội trước có phải chịu trách nhiệm HS của tội một khác đã thực hiện trước đó
  • 2.Đang chấp hành bản án mà tiếp tục thực hiện mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì phải chịu TNHS ?
  • 3.Quy định của pháp luật về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
  • 4.Chánh án Tòa án nào có quyền tổng hợp hình phạt
  • 5.Quy định pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án được hiểu như thế nào?

1.Đang chấp hành hình phạt tù của tội trước có phải chịu trách nhiệm HS của tội một khác đã thực hiện trước đó

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoại gọi: - 1900.6162

Thưa luật sư,em trai em năm nay 21 tuổi em đang chấp hành án phạt tù 5 năm với tội vận chuyển trái phép chất ma túy, trong lúc em ý đã chấp hành được 3 năm thì công an có điều tra được trước khi đi tù em tôi có tham gia sản xuất trái phép chất ma túy . Vậy em tôi có phải chịu TNHS của tội trước đó.

Người gửi: Hoa Phạm [ Bắc Giang]

Luật sư trả lời :

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi dến cho chúng tôi. Câu hỏi của bạn được chúng tôi nghiên cứu và trả lời bạn như sau :

Căn cứ vào khoản 1 điều 56 bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án quy định :

Điều 56. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

3. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Việc tổng hợp hình phạt của em trai bạn được quy định tại điều 55 Bộ luật hình sựu 2015, sửa đổi bổ sung 2017

Điều 55. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:

1. Đối với hình phạt chính:

a] Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

b] Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;

c] Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;

d] Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;

đ] Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

e] Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác;

2. Đối với hình phạt bổ sung:

a] Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

b] Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

2.Đang chấp hành bản án mà tiếp tục thực hiện mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì phải chịu TNHS ?

>> Xem thêm: Khám nghiệm hiện trường là gì? Khái quát chung về khám nghiệm hiện trường

Câu hỏi, X phạm đang phải chấp hành án phạt cải tạo không giảm giữ 3 năm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản , trong thời gian cải tạo X tiếp tục bị bắt về tội đua xe trái phép . Vậy X có phải chiu TNHS và cách tổng hợp hình phạt chung của X được tính như thé nào ?

Người gửi: Thơ Nguyễn

Căn cứ theo khoản 2 điều 56 bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định như sau :

Điều 56. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

3. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

Cách tổng hợp hình phạt của người phạm nhiều tội trong trường hợp của X căn cứ theo điểm b khoản 1 điều 55 bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định :

Điều 55. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:

1. Đối với hình phạt chính:

a] Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;

b] Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều này;

c] Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;

d] Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;

đ] Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

e] Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác;

2. Đối với hình phạt bổ sung:

a] Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;

b] Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

3.Quy định của pháp luật về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162

Theo như quy đinh tại Điều 56 BLHS năm 2015 về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có 03 trường hợp:

Trường hợp thứ nhất: “Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.”. Đối với trường hợp này cần xác định rằng người đang chấp hành một bản án là người đó đang có nghĩa vụ phải chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật nghĩa là cả trường hợp người đó đã bắt đầu việc chấp hành hình phạt của bản án đó nhưng chưa chấp hành xong và cả trường hợp người đó chưa bắt đầu chấp hành hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật đó. Đồng thời Tòa án ra quyết định hình phạt đối với tội đang xử sau đó tiến hành tổng hợp hình phạt của các bản án thành hình phạt chung, đối với việc tổng hợp hình phạt áp dụng khoản 1 Điều 55 BLHS năm 2015 thì vấn đề tổng hợp hình phạt trong trường hợp, hình phạt của bản án trước là cải tạo không giam giữ, của bản án sau là tù có thời hạn. Trường hợp này, Toà án sẽ quy đổi toàn bộ hình phạt cải tạo không giam giữ của bản án trước thành hình phạt tù theo tỉ lệ 3:1, sau đó trừ đi hình phạt tù đã được đổi từ cải tạo không giam giữ vào hình phạt tù chung.

Thời hạn đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung.

Việc quyết định hình phạt được tổng hợp do Hội đồng xét xử quyết định và được ghi trong bản án.

Trường hợp thứ hai: “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.” Đối với trường hợp này Toà án quyết định hình phạt cho một hay các tội đang xét xử [trường hợp phạm nhiều tội mới], sau đó cộng hình phạt hay các hình phạt đã tuyên với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước. Hình phạt chung không được vượt quá giới hạn được quy định tại Điều 55 BLHS năm 2015.

Trường hợp thứ ba: “Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.” Đối với trường hợp này người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp thì ở đây các tội phạm được thực hiện khi chưa có bản án nào thì áp dụng khoản 1 Điều 55 BLHS năm 2015 nếu có tội phạm thực hiện sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 55 BLHS năm 2015.

Tuy nhiên trong thực tiễn xét xử vẫn đề tổng hợp hình phạt vẫn còn tồn tại hạn chế, bất cập:

Theo thông tư số 02/TTLN ngày 20./12/1991 của TANDTC_VKSNDTC [thông tư này ban hành nhằm hướng dẫn một số điều luật BLHS 1991]. Do vấn đề tổng hợp hình phạt của nhiều bản án không có hướng dẫn cụ thể nên trong thực tế Tòa Án vẫn theo hướng dẫn của Thông tư nói trên.

Vấn đề tổng hợp hình phạt được hướng dẫn tại Mục 5 Thông tư số 02, theo đó, trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp thì Chánh án

Tòa án ra quyết định tổng hợp hình phạt. Nhưng được chia ra thành các trường hợp cụ thể như sau:
– Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều của cùng một Toà án thì Chánh án Toà án đó ra Quyết định tổng hợp hình phạt.
– Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Toà án khác nhau nhưng cùng cấp [cùng cấp huyện trong một tỉnh hoặc khác tỉnh, cùng cấp tỉnh, cùng cấp khu vực, cùng cấp quân khu] thì Chánh án Toà án ra bản án sau cùng [về mặt thời gian] ra quyết định tổng hợp hình phạt.

>> Xem thêm: Mớm cung là gì ? Quy định của pháp luật về hành vi mớm cung
– Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Toà án không cùng cấp thì Chánh án Toà án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc bản án của Toà án cấp cao hơn có trước hay có sau.
– Trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của Tòa án nhân dân, có bản án là của Tòa án quân sự thì việc tổng hợp hình phạt cũng được thực hiện như trên.
– Trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của Toà án nước ngoài đã được Toà án

Việt Nam công nhận, có bản án là của Toà án Việt Nam, thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra Quyết định tổng hợp hình phạt.

Như vậy, vấn đề thẩm quyền tổng hợp hình phạt theo Điều 56 BLHS năm 2015 được xác định theo đó Tòa án xét xử sau có thẩm quyền tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, tuy nhiên vấn đề đặt ra là đối với trường hợp việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án mà hình phạt chung vượt quá phạm vi xét xử của Tòa án tổng hợp thì xử lý như thế nào? Ví dụ: Nguyễn Văn A bị TAND tỉnh K tuyên phạt 25 năm tù về tội giết người, trong quá trình thụ lí A bỏ trốn khỏi nơi giam giữ nhưng sau đó bị bắt, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh K xét xử về tội trốn khỏi nơi giam giữ. Như vậy, trong trường hợp này theo quy định tại Điều 56 BLHS Tòa án xét xử sau là Tòa án nhân dân huyện N tỉnh K có thẩm quyền tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, tuy nhiên nếu TAND huyện K tổng hợp hình phạt thì sẽ vượt quá thẩm quyền xét xử theo quy định tại Điều 268 BLTTHS năm 2015 trường hợp này xử lý như thế nào hiện nay tồn tại hai quan điểm.

4.Chánh án Tòa án nào có quyền tổng hợp hình phạt

>> Xem thêm: Lý luận về động cơ phạm tội trong vụ án hình sự ?

Đối với quy định Chánh án Tòa án tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có hiệu lực pháp luật theo khoản 3 Điều 87 BLHS năm 2015 thì hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có hiệu lực pháp luật trước đây đã được hướng dẫn tại mục 5 của Thông tư liên tịch 02/TT-LN ngày 20/12/1991 của Toà án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nội dung cụ thể như sau:

– Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều của cùng một Toà án thì Chánh án Toà án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt.

– Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Toà án khác nhau nhưng cùng cấp [cùng cấp huyện trong một tỉnh hoặc khác tỉnh, cùng cấp tỉnh, cùng cấp khu vực, cùng cấp quân khu], thì Chánh án toà án ra bản án sau cùng [về mặt thời gian] ra quyết định tổng hợp hình phạt, cụ thể là: nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Toà án cấp huyện khác nhau [trong cùng một tỉnh hay khác tỉnh], thì Chánh án toà án cấp huyện đã ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt; nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Toà án quân sự khu vực khác nhau [trong cùng một quân khu hay khác quân khu], thì Chánh án Toà án quân sự khu vực đã ra bản án sau cùng quyết định tổng hợp hình phạt; nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều là của các Toà án cấp tỉnh [hoặc đều là của Toá án quân sự cấp quân khu], thì Chánh án Toá án cấp tỉnh [hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu] ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt.

– Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Toá án không cùng cấp thì Chánh án Toà án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Toà án cấp cao hơn có trước hay có sau.

– Trong trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án của Toà án nhân dân, có bản án của Toà án quân sự, thì việc tổng hợp hình phạt cũng được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại các điểm b, c trên đây, cụ thể là: Nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của Toà án cấp huyện và của Toà án quân sự khu vực hoặc là của Toà án cấp tỉnh và của Toà án quân sự cấp quân khu, thì Chánh án Toà án đã ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt ra quyết định; nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các toà án khác nhau và khác cấp, thì Chánh án Toà án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của toà án cấp cao hơn có trước hay có sau [ví dụ: có bản án là của Toà án nhân huyện, có bản án là của Toà án quân sự quân khu, thì Chánh án Toà án quân sự quân khu ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Toà án quân sự quân khu có trước hay có sau bản án của Toà án nhân dân huyện].

– Trong trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận, có bản án là của Toà án Việt nam, thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra quyết định tổng hợp hình phạt.

5.Quy định pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án được hiểu như thế nào?

Luật sư tư vấn pháp luật hình sự qua điện thoại gọi: 1900.6162

>> Xem thêm: Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự”

Tòa án chỉ được tổng hợp hình phạt theo khoản 1, 2 Điều 87 BLHS năm 2015 khi thỏa mãn điều kiện chung là pháp nhân thương mại bị xét xử phải là pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án. Vậy khi nào được coi là một pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án thì hiện nay còn có quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng một pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án là khi có quyết định thi hành án hoặc khi pháp nhân thương mại đang thực tế chấp hành bản án có hiệu lực pháp luật. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng một pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án là chỉ cần khi bản án xét xử pháp nhân thương mại phạm tội có hiệu lực pháp luật, vì khi bản án có hiệu lực pháp luật đương nhiên pháp nhân thương mại phạm tội phải chấp hành bản án đó của Tòa án.

Liên hệ sử dụng dịch vụ tư vấn pháp luật

Quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi: CÔNG TY LUẬT TNHH MINH KHUÊ

Điện thoại yêu cầu dịch vụ luật sư tư vấn luật hình sự, gọi: 1900.6162

Gửi thư tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ qua Email: Tư vấn pháp luật hình sự miễn phí qua Email

Rất mong nhận được phục vụ Quý khách hàng!

Trân trọng./.

Bộ phận tư vấn pháp luật hình sự - Công ty luật Minh Khuê

>> Xem thêm: Vướng mắc trong nhập, tách vụ án hình sự - Một số kiến nghị

Video liên quan

Chủ Đề