So sánh các công cụ sàng lọc dinh dưỡng

Suy dinh dưỡng bệnh viện lên đến 60%

TS.BS. Lâm Vĩnh Niên - Trưởng khoa Dinh dưỡng Bệnh viện Đại học Y Dược cho biết, bắt đầu từ tháng 8/2016 đến tháng 9/2017, sẽ sàng lọc suy dinh dưỡng sớm cho người bệnh khám và điều trị tại bệnh viện, thân nhân và những người có quan tâm đến vấn đề suy dinh dưỡng trong cộng đồng. Sau khảo sát, các bác sĩ khoa Dinh dưỡng của bệnh viện sẽ đưa ra những đánh giá và tư vấn chế độ dinh dưỡng sớm và hợp lý nhằm nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc người bệnh.

Cụ thể, người bệnh đến khám và điều trị tại bệnh viện được đo chỉ số cơ thể [BMI] để xác định tình trạng dinh dưỡng. Dựa trên kết quả đó, mỗi tháng một lần, bệnh viện sẽ tổ chức các chương trình khám và tư vấn miễn phí về suy dinh dưỡng và chế độ ăn phù hợp cho người bệnh bị suy dinh dưỡng. Chương trình này cũng mở rộng tư vấn về sức khỏe và dinh dưỡng miễn phí cho thân nhân và những người có quan tâm đến vấn đề suy dinh dưỡng trong cộng đồng.

Theo TS. Lâm Vĩnh Niên, trên thế giới, tỉ lệ suy dinh dưỡng trong bệnh viện ở mức 20 - 50%. Tại Việt Nam, trong khoảng 10 năm nay đã có nhiều nghiên cứu khảo sát tình trạng dinh dưỡng tại nhiều bệnh viện, kết quả cho thấy tỉ lệ suy dinh dưỡng bệnh viện của nước ta vào khoảng 30 - 60%.

Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới [WHO], suy dinh dưỡng là sự mất cân bằng trong cung cấp chất dinh dưỡng và năng lượng so với nhu cầu của cơ thể tại các tế bào nhằm đảm bảo sự phát triển, duy trì hoạt động các chức năng chuyên biệt của chúng.

TS. Lâm Vĩnh Niên trao đổi vấn đề dinh dưỡng bệnh viện với bệnh nhân

Suy dinh dưỡng có thể là hậu quả của sự thiếu hụt trong chế độ ăn, tăng nhu cầu do tình trạng bệnh, do biến chứng của bệnh nền [như hấp thu kém, mất chất dinh dưỡng quá mức] hoặc các nguyên nhân này có thể phối hợp với nhau. Suy dinh dưỡng gặp ở người bệnh nằm viện thường là sự kết hợp của tình trạng suy mòn [do bệnh tật] và dinh dưỡng kém [hấp thu không đầy đủ chất dinh dưỡng].

Để điều trị suy dinh dưỡng cần phải xác định được tình trạng suy dinh dưỡng hoặc nguy cơ suy dinh dưỡng. Vì vậy, cho đến nay đã có nhiều công cụ tầm soát và đánh giá dinh dưỡng được thẩm định để sử dụng trong lâm sàng. Các công cụ phổ biến gồm: đánh giá tổng thể chủ quan [SGA], tầm soát nguy cơ dinh dưỡng 2002 [NRS-2002], công cụ tầm soát suy dinh dưỡng [MST], công cụ tầm soát suy dinh dưỡng phổ quát [MUST]...

Suy dinh dưỡng là “bộ xương trong tủ”

Suy dinh dưỡng thường được xem là “bộ xương trong tủ” của bệnh viện do thường bị bỏ sót, không được chẩn đoán và không được điều trị. Hậu quả của suy dinh dưỡng đã được đề cập trong nhiều báo cáo khoa học, xảy ra cả đối với người bệnh và cơ sở chăm sóc y tế.

Suy dinh dưỡng làm tổn thương hoạt động chuyển hóa của tế bào, tổn thương sức khỏe thể chất và tinh thần của người bệnh. Ở mức độ tế bào, suy dinh dưỡng làm cơ thể đáp ứng kém với nhiễm khuẩn, tăng nguy cơ loét do tì đè, làm chậm lành vết thương, giảm hấp thu dinh dưỡng ở ruột, thay đổi thân nhiệt và tổn thương chức năng thận. Ở mức độ cơ thể, suy dinh dưỡng làm mất khối cơ và khối mỡ, giảm cơ hô hấp, giảm chức năng tim, teo các cơ quan nội tạng. Ở mức độ tinh thần, suy dinh dưỡng có liên quan với tình trạng mệt mỏi, cảm giác chán chường, từ đó dẫn đến chán ăn, phục hồi chậm. Suy dinh dưỡng lúc nhập viện hoặc tình trạng dinh dưỡng suy giảm trong quá trình nằm viện đã được chứng minh làm kéo dài thời gian nằm viện đến 4 - 5 ngày theo một số nghiên cứu. Ngoài ra, người bệnh có suy dinh dưỡng còn dễ bị biến chứng trong thời gian nằm viện so với người được nuôi dưỡng tốt, từ đó dẫn đến tăng nguy cơ tử vong.

Suy dinh dưỡng cũng là gánh nặng đối với cơ sở chăm sóc y tế. Người bệnh suy dinh dưỡng có tỉ lệ biến chứng cao hơn, dẫn đến cần nhiều công chăm sóc điều dưỡng, cần nhiều thuốc hơn, và có tình trạng phụ thuộc nhiều hơn do giảm khối cơ… Tất cả các vấn đề trên dẫn đến tăng chi phí điều trị ngoài việc điều trị bệnh lý chính của người bệnh.

PGS.TS.BS. Trương Quang Bình - Phó giám đốc Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM chia sẻ: “Việc khảo sát tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh đến khám và nhập viện tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM sẽ cung cấp bức tranh toàn cảnh mức độ suy dinh dưỡng của người bệnh, qua đó, việc phát hiện và điều trị suy dinh dưỡng được các thầy thuốc lâm sàng chú ý hơn bên cạnh điều trị bệnh chính của người bệnh. Hơn nữa, dựa trên các thông tin này, bệnh viện có thể đưa ra các chiến lược và chính sách phù hợp để nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc người bệnh”. 


by admin · May 10, 2022

SO SÁNH SÀNG LỌC NGUY CƠ DINH DƯỠNG VỚI TIÊU CHÍ GLIM MỚI VỀ SUY DINH DƯỠNG VÀ LIÊN QUAN ĐẾN SUY NHƯỢC CƠ Ở BỆNH NHÂN COVID-19 CAO TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN DÃ CHIẾN TRUYỀN NHIỄM 5G Nguyễn Duy Đông1, Tạ Việt Hà1, Huỳnh Thị Thu Hương1, Đinh Việt Hùng1 1 Bệnh viện Quân y 103 Nội dung chính của bài viết Tóm tắt

Mục tiêu: Để so sánh công cụ sàng lọc dinh dưỡng phổ biến với tiêu chuẩn chẩn đoán mới của Sáng kiến Lãnh đạo Toàn cầu về Suy dinh dưỡng [GLIM] ở những bệnh nhân COVID-19 lớn tuổi nhập viện. Phương pháp: 182 bệnh nhân COVID-19 cao tuổi nhập khoa điều trị bệnh nhân nặng, Bệnh viện Dã chiến truyền nhiễm 5G được đánh giá liên tiếp khi nhập viện bằng công cụ sàng lọc nguy cơ dinh dưỡng 2002 [NRS-2002], suy dinh dưỡng theo tiêu chuẩn GLIM, và đánh giá nguy cơ suy nhược cơ bằng SARC-F. Kết quả: Tỷ lệ suy dinh dưỡng 46,7% theo GLIM. Độ nhạy, độ đặc hiệu của NRS-2002 trong phát hiện suy dinh dưỡng là 98,8% và 56,7%. Mức độ phù hợp với tiêu chuẩn GLIM là 54,0%. Công cụ sàng lọc có giá trị để chẩn đoán suy dinh dưỡng. Những bệnh nhân có nguy cơ dinh dưỡng theo NRS-2002 có nhiều khả năng hiện diện suy nhược cơ hơn những bệnh nhân có nguy cơ thấp [OR:4,04; KTC 95%: 1,31-12,4]. Kết luận: NRS-2002 có giá trị trong phát hiện suy dinh dưỡng ở bệnh nhân COVID-19 cao tuổi nằm viện được chẩn đoán bởi tiêu chuẩn GLIM mới. Hơn nữa, bệnh nhân COVID-19 cao tuổi có nguy cơ cao suy dinh dưỡng theo NRS-2002 có nguy cơ cao mắc suy nhược cơ. Tình trạng dinh dưỡng nên được xác định bởi NRS-2002 ở bệnh nhân cao tuổi mắc COVID-19 khi nhập viện.

Độ tuổi dân số trung bình ngày càng tăng ở các nước, ngay cả các nước đang phát triển, làm gia tăng các đối tượng lớn tuổi với nhu cầu nhập viện cao hơn. Trong bối cảnh này, mối liên quan giữa  nhập  viện  và  suy  dinh  dưỡng  ngày  càng được báo cáo, có tác động tiêu cực đến đáp ứng điều trị, phục hồi chức năng, thời gian nằm viện và chi phí, cũng như chất lượng cuộc sống. Nhập viện cũng có liên quan đến mất khối lượng cơ và sức cơ, là yếu tố xác định suy  nhược cơ.  Suy dinh dưỡng có liên quan chặt chẽ với suy nhược cơ, và sự hiện diện của cả hai tình trạng này có liên quan đến một số kết quả bất lợi [1]. Sự xuất hiện đồng thời của suy dinh dưỡng và suy nhược cơ được xác định là hội chứng suy dinh dưỡng-suy nhược cơ [malnutrition-sarcopenia  syndrome,MSS].  Điều  này  đại  diện  cho  một  yếu  tố  tiên lượng cho người cao tuổi nhập viện [2]. Đánh giá tổng hợp về tình trạng dinh dưỡng và sự hiện diện của suy nhược cơ sẽ giúp cải thiện kết quả lâm sàng ở những bệnh nhân này.Chẩn đoán suy dinh dưỡng hoặc nguy cơ suy dinh  dưỡng  đòi  hỏi  một  đánh  giá  dinh  dưỡng toàn diện, thường khó thực hiện trên tất cả bệnh nhân nhập viện do hạn chế cả về thời gian và tài chính, đặc biệt ở đối tượng bệnh nhân COVID-19. Để khắc phục hạn chế này, Sáng kiến Lãnh đạo  Toàn  cầu  về  Suy  dinh  dưỡng  [the  Global Leadership    Initiative    on    Malnutrition-GLIM] khuyến nghị mô hình hai bước trong đó đánh giá chẩn đoán trước khi sàng lọc nguy cơ sử dụng bất kỳ công cụ nào đã được xác thực [3].  Tuy nhiên, mặc dù có một số công cụ để xác định nhanh  tình  trạng  suy  dinh  dưỡng  ở  người  lớn tuổi,  bệnh  nhân  không  được  kiểm  tra  thường xuyên về tình trạng dinh dưỡng khi nhập viện.Đánh giá dinh dưỡng tối thiểu [MNA] được coi là một trong những công cụ xác thực nhất để xác định tình trạng suy dinh dưỡng hoặc nguy cơ suy dinh dưỡng, và nó đặc biệt được sử dụng ở người lớn tuổi. Tuy nhiên, MNA có những nhược điểm như câu hỏi chủ quan không phù hợp với người lớn tuổi nhập viện, không thể sử dụng cho bệnh nhân nội trú bị suy giảm nhận thức, và phải thực hiện 10 đến 15 phút. Một số công cụ sàng lọc  dinh  dưỡng  đã  được  áp  dụng  để  nhanh chóng xác định tình trạng suy dinh dưỡng ở bệnh nhân lớn tuổi trong bệnh viện, và mỗi công cụ đều có những cải thiện và điểm yếu. Gần đây, một  tổng  quan  có  hệ  thống  đã  đánh  giá  các nghiên cứu có sẵn suy dinh dưỡng và suy nhược cơ đồng thời, dẫn đến không thể đoán trước về phương pháp.Nghiên  cứu  này  nhằm  so  sánh  công  cụ  để sàng lọc nguy cơ dinh dưỡng 2002 [NRS-2002] ở bệnh nhân COVID-19 lớn tuổi nhập viện, để xác định độ nhạy, độ đặc hiệu của họ, và tính nhanh chóng  đối  với  sự  đồng  thuận  của  GLIM,  được chọn  làm  phương  pháp  tham  chiếu.  Hơn  nữa, cuộc điều tra hiện tại đã đánh giá mối liên quan giữa sự thay đổi tình trạng dinh dưỡng được xác định bởi những công cụ này và sự hiện diện của suy nhược cơ

Tags: Bệnh nhân COVID-19 cao tuổisàng lọc nguy cơ dinh dưỡngsuy nhược cơtình trạng dinh dưỡng

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề