Tại sao phải cắt mắt tôm

2018-09-17 11:28:41

Đây là phương pháp truyền thống bằng cách cắt cuống mắt tôm mẹ nhằm kích thích quá trình lột xác, tăng khả năng chín muồi sinh dục và đẩy nhanh quá trình đẻ trứng của tôm.

Tại sao phải cắt mắt tôm

Các thao tác cắt mắt tôm cái theo thứ tự 1-4

Tuy nhiên, theo khoa học hiện nay sản xuất tôm giống bằng cách cắt cuống mắt sẽ làm giảm số lần sinh sản và chất lượng của tôm. Áp dụng phương pháp sản xuất tôm tự nhiên không cắt cuống mắt sẽ giải quyết bài toán khó về tôm giống hiện nay, tạo ra đàn tôm giống đồng đều, sạch bệnh.

Cách cắt cuống mắt tôm mẹ nhằm kích thích quá trình lột xác

Cắt mắt tôm phương pháp truyền thống

Thao tác cắt mắt tôm thẻ chân trắng truyền thống như sau: Bắt tôm cái -> Dùng dây thun buộc chặt mắt muốn cắt -> Lấy kéo cắt phần dây thun còn dư -> Thả tôm cái vào thùng nước có pha sẵn Iodine để sát trùng -> Thả tôm lại vào bể nuôi, Sau 3-4 ngày cuống mắt sẽ rụng. Sau khi cắt mắt khoảng 5-10 ngày (tuỳ chế độ dinh dưỡng và mức độ thành thục của tôm cái khi cắt mắt) thì tôm cái sẽ bắt đầu thành thục (lên  trứng).

Sản xuất tôm giống hiện nay hầu hết đều sử dụng phương pháp truyền thống là cắt cuống mắt tôm mẹ nhằm kích thích quá trình lột xác, tăng khả năng chín muồi sinh dục và đẩy nhanh quá trình đẻ trứng của tôm. Sở dĩ sử dụng phương pháp này bởi ở cuống mắt của tôm (cả tôm đực và cái) có chứa phức hệ cơ quan X (tuyến nút), cơ quan X trực tiếp điều khiển tổng hợp hormon ức chế sự phát triển tuyến sinh dục (GIH) và hormon ức chế lột xác (MIH). Vì vậy, khi cắt cuống mắt sẽ loại bỏ bớt phức hệ cơ quan X, từ đó làm giảm tác nhân ức chế sự phát triển của tuyến sinh dục (GIH). Bên cạnh mặt lợi, tôm khi bị cắt mắt có một số hạn chế: Chúng chỉ đẻ 3 - 5 lần, sau đó đời sống sinh sản chấm dứt; chất lượng lần sinh sản sau giảm dần.

Do đặc điểm tôm sú có Thelycum kín nên khi cắt cuống mắt tôm cái sẽ lột xác, cơ quan sinh sản mềm ra, từ đó tôm đực dễ dàng gắn túi tính khi giao vĩ. Còn đối với tôm thẻ chân trắng (TTCT) do có Thelycum hở nên việc sinh sản được tiến hành thuận lợi ngay cả khi không tiến hành lột xác. Dựa vào đặc điểm đó nên việc sản xuất giống TTCT bằng cách nuôi tự nhiên đã thành công và đạt hiệu quả tốt. Phương pháp này là một chuỗi đồng bộ từ việc lựa chọn tôm bố mẹ có nguồn gốc, sạch bệnh và đầu tư áp dụng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp để tạo ra giống TTCT hạn chế lây nhiễm các bệnh đốm trắng, Taura, đầu vàng, hoại tử cơ, hoại tử gan tụy. Do đó, sức đề kháng, tỷ lệ sống, tốc độ tăng trưởng của tôm cũng cao hơn phương pháp cắt mắt.

Áp dụng trong sản xuất tôm giống

Quá trình sản xuất giống TTCT bằng phương pháp tự nhiên, không cắt mắt này bao gồm việc chọn tôm bố mẹ có nguồn gốc Hawaii trọng lượng trên 45g/con đực và 50g/con cái. Việc thuần hóa, nuôi vỗ tôm bố mẹ là giai đoạn rất quan trọng, đòi hỏi phải bổ sung đầy đủ dinh dưỡng và khống chế các chỉ tiêu môi trường ở điều kiện thích hợp để giúp tôm thành thục một cách tự nhiên. Quản lý các chỉ tiêu môi trường (nhiệt độ, độ mặn) và sử dụng dinh dưỡng hợp lý được coi là yếu tố then chốt của quá trình, nhằm đạt chất lượng giống đồng đều, ổn định và có nhiều điểm nổi trội hơn so với phương pháp truyền thống.

Thực tế cho thấy, khi tôm ở ngoài tự nhiên không bị cắt cuống mắt và có thể đẻ nhiều lần hơn trong một khoảng thời gian dài, cho ra nhiều tôm con hơn. Vì vậy người ta đã nghiên cứu làm sao để có thể kích thích tôm đẻ mà không cần cắt mắt.  Trên thế giới, việc ứng dụng tiêm serotonin cho tôm cái đã được thực hiện và tỷ lệ tôm đẻ lần đầu là 35,4%, gấp sáu lần đối chứng. Tỷ lệ tôm đẻ tiếp trong lần hai là 6,7%. Tính chung, số tôm đẻ do được kích thích bằng serotonin gấp bảy lần so với đối chứng. Tỷ lệ tôm đẻ nhờ tiêm serotonin thấp hơn tôm được cắt cuống mắt. Nhưng sau những lần đẻ dồn dập số tôm cắt cuống mắt không thể tiếp tục được dùng để sản xuất tôm giống. Trong khi đó tôm đã đẻ nhờ serotonin vẫn tiếp tục sinh sản vì không bị tổn thương, nhờ thế mà có thể kéo dài được tuổi thọ sinh sản của tôm.

Sau thời gian nuôi tích cực 1 - 2 tháng, những con tôm cái thành thục sẽ được thả vào bể tôm đực để chúng tự giao vĩ, sau đó chuyển tôm cái vào bể tôm đẻ. Lúc này cần đảm bảo cho bể tôm đẻ có điều kiện nhiệt độ thích hợp, yên tĩnh, không ánh sáng. Sau 36 - 40 giờ thu gom Nauplius và chuyển sang trại ương để tiếp tục ương lên Postlarvae.

Ưu điểm phương pháp tự nhiên, không cắt mắt:

- Do không cắt cuống mắt nên không gây tổn thương tôm mẹ, không mất thời gian chăm sóc tôm mẹ phục hồi như khi bị cắt mắt.

- Số lượng Nauplius thu được lớn hơn 200 Nauplius/con cái, thời gian chuyển giai đoạn từ Nauplius đến Postlarvae 12 là 18 - 19 ngày, ngắn hơn 1 - 2 ngày so với phương pháp cắt cuống mắt và chiều dài của Pl 8 (Postlarvae 8) tương đương Pl 10 của phương pháp cắt mắt.

- Tôm giống có chất lượng đồng đều, không dị dạng, khỏe mạnh.

Theo tepbac.com

Tại sao phải cắt mắt tôm

Thử nghiệm của một nhà nghiên cứu cho thấy rằng việc cắt bỏ cuống mắt ở tôm không những không cần thiết mà còn có khả năng phản tác dụng, đã lọt vào danh sách rút gọn cho giải thưởng đổi mới GOAL năm nay.

Cắt mắt được thực hiện rộng rãi trong các trại sản xuất tôm giống như một biện pháp để kích thích tôm cái bố mẹ đẻ nhiều trứng hơn. Tuy nhiên, nó làm dấy lên những lo ngại nghiêm trọng về phúc lợi và công trình của nhà nghiên cứu sau tiến sĩ Simao Zacarias cho rằng việc cắt mắt có thể tạo ra tôm con dễ mắc bệnh hơn.

Như đã trình bày chi tiết trong một bài báo trên Tạp chí Toàn cầu về Nuôi trồng Thủy sản hôm nay, nghiên cứu của Zacarias tại các trại sản xuất tôm giống tôm thẻ chân trắng ở Honduras và Thái Lan cho thấy tôm con được sinh sản từ tôm mẹ không cắt mắt có tỷ lệ sống cao hơn khi chúng được cảm nhiễm với vi khuẩn gây hội chứng chết sớm (EMS) và virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV).

Nhà nghiên cứu sau tiến sỹ tại đại học Stirling cũng chỉ ra rằng cung cấp thức ăn chất lượng cao, giàu dinh dưỡng cho tôm bố mẹ trong giai đoạn tiền sinh sản, người nuôi tôm có thể đạt được tỷ lệ sản xuất trứng tương tự mà không cần phải cắt mắt.

Ông nói với Advocate: “Thức ăn khô và tươi bao gồm mực và giun nhiều tơ sẽ kích thích tôm bố mẹ trưởng thành nhanh hơn, dẫn đến cải thiện kết quả trong các bể sinh sản. Thay đổi khả năng tiếp xúc với ánh sáng của tôm bố mẹ, cùng với nguồn cấp dữ liệu chất lượng cao, có thể nâng cao những kết quả đó”.

Một biện pháp khác để đạt được tỷ lệ sản xuất trứng như nhau là quản lý tỷ lệ giới tính trong bể sinh sản và tăng tỷ lệ tôm đực trên tôm cái từ 1: 1 lên 1: 2.

Ông lưu ý: “Chúng tôi đã chứng minh nghiên cứu của mình rằng nếu bạn quản lý được tỷ lệ giới tính, bạn sẽ có năng suất tương tự như năng suất đạt được khi cắt bỏ cuống mắt”.

Mặc dù điều này đòi hỏi các trại giống phải tăng gấp đôi số lượng tôm cái trong bể giống của họ, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc tăng gấp đôi chi phí, bởi vì những con cái bị cắt bỏ mắt có tỷ lệ chết cao.

“Nếu bạn không cắt bỏ cuống mắt của tôm, tỷ lệ chết của tôm bố mẹ thấp hơn. Chúng tôi hy vọng sẽ thực hiện một phân tích ở Thái Lan vào cuối năm để mang lại tác động kinh tế đầy đủ của việc sử dụng động vật không bị cắt mắt, ”ông nói.

“Nhưng từ thông tin không đúng được chia sẻ bởi những người quản lý trại giống, tôi đã học được rằng theo thời gian, với thế hệ tôm bố mẹ không cắt mắt tiếp theo, bạn không cần phải tăng tỷ lệ sinh sản đó để đạt được kết quả tương tự. Tôm sẽ sinh sản tự nhiên khi được cung cấp thức ăn bổ sung chất lượng cao ”.

Công việc của Zacarias được thúc đẩy bởi nhu cầu về thực hành phúc lợi động vật tốt hơn trong các trại sản xuất tôm giống - việc cắt mắt tôm bố mẹ thường xuyên được các nhà vận động chống nuôi trồng thủy sản và quyền động vật coi là vấn đề phúc lợi chính.

“Người tiêu dùng ở châu Âu và châu Mỹ đang yêu cầu một sản phẩm được sản xuất với mức phúc lợi cao, vì vậy nếu bạn ngừng cắt bỏ cuống mắt, bạn sẽ tiếp cận được thị phần lớn hơn. Sự đổi mới này có thể được kỳ vọng sẽ trở thành một chiến lược sức khỏe quan trọng trong nuôi tôm trong tương lai. ”

Nguồn: thefishsite.com

Dịch bởi: KS. Nguyễn Thành Quang Thuận – VPAS JSC

A researcher whose trials suggest that eyestalk ablation in shrimp is not only unnecessary but also potentially counter-productive, has made the shortlist for this year’s GOAL innovation award.

Eyestalk ablation is widely practiced in shrimp hatcheries as a means to encourage female shrimp broodstock to produce more eggs. However, it raises serious welfare concerns and the work of postdoctoral researcher Simao Zacarias suggests that ablation produces offspring that are more prone to disease.

As detailed in an article in today’s Global Aquaculture Advocate, Zacarias’ research in vannamei shrimp hatcheries in Honduras and Thailand showed higher survival rates in in juvenile shrimp from non-ablated broodstock when they were challenged with early mortality syndrome (EMS) and white spot syndrome virus (WSSV).

The University of Stirling post-doc also argues that providing high quality, nutritious feed to broodstock in their pre-maturation stage, shrimp farmers can achieve a similar egg production rate without resorting to eyestalk ablation.

“A dry and fresh feed composed of squid and polychaete stimulates broodstock to mature faster, leading to improved results in the breeding tanks,” he told the Advocate. “Altering broodstock’s exposure to light, coupled with the high-quality feed, can enhance those results.”

Another means to achieving the same egg production rate is managing the sex ratio in breeding tanks and increasing the ratio of male-to-female shrimp from 1:1 to 1:2.

“We proved in my research that if you manage the sex ratio you’ll have similar productivity to that achieved with eyestalk ablation,” he noted.

While this requires hatcheries to double the number of female shrimp in their breeding tanks, it would not necessarily double their costs, because eyestalk ablated females have a high mortality rate.

“If you don’t ablate you have a lower mortality rate of broodstock. We’re hoping to do an analysis in Thailand by the end of the year that will deliver the full economic impact of using non-ablated animals,” he said.

“But from anecdotal information shared by hatchery managers I’ve learned that over time, with the next generation of non-ablated broodstock, you don’t need to increase that breeding ratio to achieve the same results. The shrimp will reproduce naturally when given a high-quality supplemental feed.”

Zacarias’ work is driven by the demand for better animal welfare practices in shrimp hatcheries – with ablation regularly cited as a major welfare issue by anti-aquaculture and animal rights campaigners.

“Consumers in Europe and America are demanding a product produced with high welfare, so if you cease eyestalk ablation you have access to a greater market share. This innovation can be expected to become a key health strategy in shrimp farming going forward.”