Thời kỳ thanh tra là gì

Diễn đàn thanh tra
Việc thi hành pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra - Thực trạng quy định và kiến nghị, đề xuất
Page Content

Kết luận thanh tra là văn bản quan trọng nhất của cuộc thanh tra, phản ánh toàn diện, đầy đủ về kết quả của cuộc thanh tra, là cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện những kiến nghị trong Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra. Kết luận thanh tra được người ra quyết định thanh tra ban hành để đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức và cá nhân được thanh tra; về các ưu điểm, nhược điểm của cơ chế, chính sách, pháp luật được thực hiện trên thực tế; phát hiện những sai phạm trong hoạt động quản lý; xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân; từ đó có các biện pháp sửa chữa, khắc phục sơ hở, yếu kém, xử lý nghiêm minh các hành vi sai phạm.

Do đó, hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra phụ thuộc rất lớn vào việc nhận thức, sự tuân thủ quy định pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện đầy đủ các kết luận thanh tra. Thực tiễn thi hành cho thấy, việc thực hiện quy định pháp luật về kết luận thanh tra đã đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh đó cũng có những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung phân tích về thực trạng quy định pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra trong quá trình triển khai thực hiện, từ đó đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này.
1.Thực trạngthực hiệnquy định pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra
a. Quy định pháp luật về xây dựng, ban hành kết luận thanh tra
Chất lượng của kết luận thanh tra ảnh hưởng rất lớn tới hiệu lực thực hiện các kiến nghị và quyết định xử lý, đồng thời ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả cuộc thanh tra. Xây dựng và ban hành kết luận thanh tra là trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra và được quy định trong Luật Thanh tra năm 2010, Nghị định số86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP ngày 09/02/2012 của Chính phủ quy định cơ quan được giao thực hiện thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành và Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra. Cụ thể:
- Về xây dựng và thẩm định dự thảo kết luận thanh tra: Luật Thanh tra chưa có quy định về thẩm định dự thảo kết luận thanh tra nhưng theo Thông tư 05/2014/TT-TTCP thì người ra quyết định thanh tra xem xét hoặc giao cho cơ quan, đơn vị chuyên môn nghiên cứu dự thảo kết luận thanh tra để tham mưu, đề xuất cho mình chỉ dạo hoàn thiện dự thảo kết luận thanh tra; không buộc phải thẩm định dự thảo kết luận trước khi ký ban hành nên công tác thẩm định dự thảo chưa được chú trọng đúng mức. Tại Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh, về cơ bản công tác xây dựng dự thảo kết luận thanh tra đảm bảo thực hiện theo quy định tại Điều 35 Thông tư 05/2014/TT-TTCP, theo đó, Trưởng Đoàn thanh tra xây dựng dự thảo kết luận thanh tra và phòng thẩm định, xử lý sau thanh tra thực hiện nhiệm vụ thẩm định. Nhưng tại cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành cũng như ở Thanh tra sở, Thanh tra huyện, do số lượng công chức làm công tác thanh tra ít, không có phòng thực hiện chức năng thẩm định nên chủ yếu giao cho Đoàn thanh tra tự chịu trách nhiệm xây dựng dự thảo kết luận thanh tra để trình người ký quyết định thanh tra ban hành kết luận thanh tra. Điều này cho thấy, việc thẩm định dự thảo kết luận thanh tra chưa có quy định thống nhất, chưa quy định cụ thể về căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thẩm định, giá trị pháp lý của văn bản thẩm định nên việc thực hiện công tác thẩm định dự thảo kết luận thanh tra còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng. Ở một số nơi, chất lượng kết luận thanh tra của một số sở, huyện còn thấp, có ít kiến nghị sửa đổi cơ chế, chính sách, pháp luật, việc kiến nghị, xem xét trách nhiệm kỷ luật còn chung chung, thiếu cụ thể.
- Về ban hành kết luận thanh tra: Đối với kết luận thanh tra hành chính, tại Khoản 1, Điều 50 Luật Thanh tra quy định: Chậm nhất 15 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra và gửi tới Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp, cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên, đối tượng thanh tra. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước là người ra quyết định thanh tra thì kết luận thanh tra còn phải được gửi cho Thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp. Kết luận thanh tra phải có các nội dung: đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của đổi tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; kết luận về nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật; biện pháp xử lý theo thẩm quyền và kiến nghị biện pháp xử lý.
Đối với kết luận thanh tra chuyên ngành, tại Điều 27Nghị định số 07/2012/NĐ-CP quy định: căn cứ vào báo cáo kết quả thanh tra, nội dung giải trình của đối tượng thanh tra [nếu có], chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra; trừ trường hợp nội dung kết luận thanh tra phải chờ kết luận về chuyên môn của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Kết luận thanh tra phải có các nội dung: Kết quả kiểm tra, xác minh về từng nội dung thanh tra; kết luận về việc thực hiện chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, chuyên môn, kỹ thuật, nhiệm vụ, quyền hạn của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm [nếu có]; kiến nghị các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, ban hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý hoặc hủy bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua thanh tra.
Thực tế cho thấy, các dự thảo kết luận thanh tra do Trưởng đoàn thanh tra xây dựng sau đó trình người ra quyết định thanh tra ký ban hành. Trên cơ sở báo cáo kết quả cuộc thanh tra, ý kiến báo cáo của Đoàn thanh tra và ý kiến giải trình của đối tượng thanh tra; căn cứ vào các quy định của pháp luật, người ra quyết định thanh tra ban hành Kết luận thanh tra. Việc giải trình của đối tượng thanh tra mất rất nhiều thời gian, đặc biệt trong một số trường hợp, dự thảo kết luận thanh tra cần phải xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp nên thời gian 15 ngày thường khó thực hiện. Việc quy định thời hạn ban hành kết luận thanh tra là 15 ngày kể từ ngày nhận được Báo cáo kết quả thanh tra được áp dụng chung cho tất cả các cuộc thanh tra là chưa phù hợp, bởi vì có những cuộc thanh tra sau khi kết thúc thanh tra trực tiếp tại đơn vị, các cơ quan thanh tra không chỉ cần có thời gian để tổng hợp mà còn phải tham vấn ý kiến của các cơ quan khác hoặc xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên, thậm chí có trường hợp phải trưng cầu giám định nên thời gian ban hành kết luận thanh tra cần phải được kéo dài. Điều này, đẫn đến tình trạng ban hành kết luận thanh tra chậm, không đúng thời hạn Luật quy định còn phổ biến ở hầu hết các bộ ngành, địa phương.
- Về gửi, công khai kết luận thanh tra: Các kết luận thanh tra sau khi được ban hành đều được gửi cho các đối tượng quy định tại Khoản 1, Điều 50 Luật Thanh tra và thực hiện công khai theo Điều 39 Luật Thanh tra và Điều 46 Nghị định số 86/2011/NĐ-CP. Việc công khai kết luận thanh tra được thực hiện bằng nhiều hình thức. Người ra quyết định thanh tra phải công khai bằng công bố tại cuộc họp và lựa chọn một trong các hình thức công khai thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng hoặc đưa lên trang thông tin điện tử hoặc niêm yết tại trụ sở làm việc của cơ quan, tổ chức là đối tượng thanh tra. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, do đặc thù tính chất công việc, việc công khai của một số cơ quan có đặc thù riêng, như đối với ngành Ngân hàng, hình thức công khai chủ yếu là công bố tại cuộc họp chứ không niêm yết tại trụ sở của đối tượng thanh tra hoặc đăng trên phương tiện thông tin đại chúng, trang thông tin điện tử vìviệc thông tin cụ thể về kết luận thanh tra có thể gây ra các rủi ro về thị trường tín dụng, ảnh hưởng đến xã hội. Đối với thanh tra chuyên ngành của một số bộ ngành như giao thông vận tải, tài nguyên môi trường, y tế thì thường một cuộc thanh tra có rất nhiều đối tượng thanh tra, thời gian thanh tra ngắn, kết thúc buổi làm việc đoàn thanh tra đã lập biên bản thanh tra hoặc đối tượng thanh tra đã thống nhất với dự thảo kết luận thanh tra nên không tổ chức công bố kết luận thanh tra tại cuộc họp với thành phần gồm người ra quyết định thanh tra , đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan vì mang tính hình thức, không cần thiết mà gây tốn kém ngân sách, thời gian. Do đó, với quy định công khai kết luận thanh tra tại cuộc họp là không phù hợp với một số cuộc thanh tra chuyên ngành,thiếu linh hoạt, không phù hợp với một số ngành.
- Về kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra: việc quy định nhiệm vụ kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra khi cần thiết cho các cơ quan thanh tra là một điểm mới đáng được lưu ý và ghi nhận của Luật Thanh tra năm 2010, là cơ sở pháp lý quan trọng để cơ quan, người có thẩm quyền nâng cao trách nhiệm của mình trong việc đảm bảo chất lượng của kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra và cũng là cơ sở để cơ quan, người có thẩm quyền xem xét lại và có biện pháp xử lý đối với các kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra đã được ban hành khi cần thiết, qua đây góp phần nâng cao hiệu lực của hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, Luật Thanh tra chỉ mới xác định nguyên tắc chung, quy định thẩm quyền kiểm tra, đối tượng kiểm tra mà chưa quy định căn cứ kiểm tra, nội dung kiểm tra, trách nhiệm của đơn vị, cá nhân tiến hành kiểm tra, xử lý kết quả kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử lý sau thanh tra. Do vậy, qua tổng kết 6 năm thi hành Luật Thanh tra cho thấy, quy định này hầu như chưa được triển khai thực hiện trên thực tế.
- Hình thức pháp lý của kết luận thanh tra và việc giải quyết khiếu nại đối với kết luận thanh tra: Luật Thanh tra và Nghị định số 86/2011/NĐ-CP có quy định về khiếu nại của đối tượng thanh tra đối với kết luận thanh tra. Điều 73 Nghị định 86/2011/NĐ-CP quy định: Khiếu nại của đối tượng thanh tra đối với kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra khi có căn cứ cho rằng kết luận, quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thì Thủ trưởng cơ quan thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đã có kết luận hoặc quyết định xử lý có trách nhiệm xem xét, giải quyết", Trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan quản lý, Thủ trưởng cơ quan thanh tra đã giải quyết nhưng đương sự còn khiếu nại thì việc giải quyết được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại". Như vậy, khi đối tượng thanh tra khiếu nại kết luận thanh tra thì người ban hành kết luận thanh tra có trách nhiệm xem xét, giải quyết, nhưng pháp luật thanh tra chưa quy định trình tự, thủ tục giải quyết này, cũng như chưa quy định việc tiếp tục thực hiện kết luận thanh tra hay không khi người ban hành kết luận thanh tra hoặc quyết định xử lý giải quyết khiếu nại. Bên cạnh đó, việc giải quyết này có được coi là giải quyết lần đầu hay không, hay khi đương sự không đồng ý và khiếu nại theo quy định của pháp luật khiếu nại và được giải quyết thì mới coi là giải quyết khiếu nại lần đầu.
-Về sửa đổi, bổ sung kết luận thanh tra: Thực tiễn thi hành quy định pháp luật về kết luận thanh tra cho thấy, một số kết luận thanh tra ban hành đã có hiệu lực nhưng cần phải sửa đổi, bổ sung khi: [i] tự phát hiện một số nội dung trong kết luận thanh tra cần phải sửa đổi, bổ sung; [ii] khi có quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với kết luận thanh tra có kết luận cần phải sửa đổi, bổ sung kết luận thanh tra; [iii] qua kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra; [iv] qua quá trình theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra. Song hiện nay, pháp luật thanh tra chưa có quy định cụ thể về căn cứ, thẩm quyền cũng như hình thức, thể thức ban hành nên gây khó khăn, vướng mắc, lúng túng và mỗi nơi có những cách làm khác nhau về sửa đổi, bổ sung kết luận thanh tra.
b. Quy định pháp luật về thực hiện kết luận thanh tra
Điều 40 Luật Thanh tra quy định, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kết luận thanh tra hoặc nhận được kết luận thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệm tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra: [i] Xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý sai phạm về kinh tế; [ii] xử lý, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật; [iii] áp dụng, yêu cầu hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật; [iv] xử lý vấn đề khác thuộc thẩm quyền trong kết luận thanh tra. Luật Thanh tra cũng quy định rõ về xử lý hành vi không thực hiện yêu cầu, kết luận, quyết định xử lý về thanh tra tại Điều 41 nhưng chỉ quy định mang tính nguyên tắc chung.
Căn cứ Luật Thanh tra, Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ quy định cụ thể về thực hiện kết luận thanh tra.Theo đó:
- Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện kết luận thanh tra: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày công bố kết luận thanh tra:
+ Thủ trưởng cơ quanquản lý nhà nước cùng cấp với cơ quan ban hành kết luận thanh tra có trách nhiệm:chỉ đạo việc thực hiện kết luận thanh tra;xử lý sai phạm về hành chính, kinh tế;xử lý cán bộ, công chức, viên chức, người có hành vi vi phạm;khắc phục sơ hở, yếu kém trong quản lý, hoàn thiện chính sách, pháp luật[Điều 4, Điều 5, Điều 6, Điều 7 Nghị định số 33/2015/NĐ-CP];
+ Thủ trưởngcơ quan ban hành kết luận thanh tra cótrách nhiệm:Quyết định, yêu cầu, kiến nghị thực hiện kết luận thanh tra;theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra[Điều 8, Điều 9];
+ Đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quancótrách nhiệm:tổ chức thực hiện kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra;thực hiện kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý sai phạm về hành chính, kinh tế,xử lý cán bộ, công chức, viên chức, người có hành vi vi phạm,khắc phục sơ hở, yếu kém trong quản lý, hoàn thiện chính sách, pháp luật;báo cáo việc thực hiện kết luận thanh tra[Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14 ];
+ Người đứng đầu cơ quan, tổ chức quản lý trực tiếp đối tượng thanh tra có trách nhiệm:thực hiện và chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra;xử lý hành vi vi phạm của đối tượng thanh tra[Điều 15, Điều 16].
- Theo dõi, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra:trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày công bố kết luận thanh tra, người được giao nhiệm vụ theo dõi có trách nhiệm mở hồ sơ theo dõitập hợp các thông tin liên quan đến việc thực hiện kết luận thanh tra. Sau45 ngàytheo dõi,nếu nhận thấy việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra chưa hoàn thành, Thủ trưởng cơ quan thanh tra quyết định tiến hành đôn đốc thực hiện,hoạt động này được tiến hành trong thời hạn 25 ngày. Nếu việc thực hiện kết luận thanh travẫnchưa hoàn thành,tiến hành kiểm tra theo quy định tại Nghị định này, thời gian kiểm tra tối đa là 10 ngày kể từ ngày bắt đầu kiểm tra.Nếu nội dung kiểm tra phức tạp, phạm vi kiểm tra rộng thì thời hạn kiểm tra là 20 ngày, kể từ ngày bắt đầu kiểm tra.Căn cứ kết quả kiểm tra, thủ trưởng cơ quan thanh tra nhà nước, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có trách nhiệmyêu cầu thủ trưởng cơ quan quản lý trực tiếp của đối tượng kiểm tra áp dụng biện pháp theo thẩm quyền buộc đối tượng kiểm tra hoàn thành việc thực hiện kết luận thanh trahoặc áp dụng theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật
Hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra phụ thuộc rất lớn vào việc nhận thức và triển khai đầy đủ các kết luận thanh tra. Qua thực tiễn thi hành cho thấy, tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản thất thoát thấp so với các kiến nghị trong kết luận thanh tra, việc thực hiện các kiến nghị khác trong kết luận thanh tra cũng chiếm tỷ lệ không cao. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân khách quan, có nguyên nhân chủ quan như việc xác định nội dung, đối tượng thanh tra, chất lượng hoạt động thanh tra, báo cáo, kết luận thanh tra, ý thức tổ chức thực hiện kết luận thanh tra, ý thức chấp hành của đối tượng thanh tratrong đó, có cả nguyên nhân do bất cập quy định pháp luật về thực hiện kết luận thanh tra. Cụ thể:
- Mục III Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ quy định về thực hiện kết luận thanh tra không quy định cụ thể về thời gian, thời hạn thực hiện kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra đối với đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, dẫn đến mỗi kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra yêu cầu thời gian thực hiện kết luận thanh tra khác nhau, không thống nhất.
- Khoản 4,Điều 24 và Khoản 6,Điều 25 Nghị định số 33/2015/NĐ-CP có quy định kết quả xử lý kết quả đôn đốc/kiểm tra phải được công khai theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật về thanh tra chưa quy định cụ thể về vấn đề này, dẫn đến vướng mắc trong thực hiện.
- Nghị định số 33/2015/NĐ-CP ngày 27/3/2015 của Chính phủ quy định về thực hiện kết luận thanh tra chỉ quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện kết luận thanh tra và theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra, quy định mang tính chung nhất về chế tài thực hiện mà chưa quy định các biện pháp, chế tài cụ thể xử lý đối với trường hợp đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan không thực hiện hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của kết luận thanh tra, quyết định, yêu cầu, kiến nghị thực hiện kết luận thanh tra; chưa có quy định cụ thể về thời hạn đối tượng thanh tra phải thực hiện nộp lại số tiền sai phạm qua thanh tra theo Quyết định thu hồi tiền.
- Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-TTCP-NHNN ngày 25/11/2015 của Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về hướng dẫn việc phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra quy định: Việc phong tỏa tài khoản của đối tượng thanh tra chỉ được thực hiện khi có dấu hiệu đối tượng thanh tra tẩu tán tài sản hoặc không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản", nhưng cơ sở để xác định đối tượng thanh tra không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản là chưa được quy định cụ thể, chưa quy định rõ ràng nên việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản hiện nay đang gặp nhiều lúng túng hoặc khó thực hiện trong thực tế vì sau khi phong tỏa tài khoản, đối tượng thanh tra vẫn không chấp hành quyết định nộp tiền theo quyết định thu hồi và nếu chỉ được phong tỏa số tiền đối tượng thanh tra không thực hiện nộp theo quy định thu hồi nhưng không được yêu cầu các tổ chức tín dụng chuyển thẳng số tiền từ tài khoản của đối tượng thanh tra để nộp ngân sách nhà nước thì không có nhiều tác dụng và cũng không khả thi, đối tượng thanh tra cố tình chây ỳ không thực hiện.
- Thực tiễn có tình trạng tổ chức, cá nhân sai phạm có hoàn cảnh khó khăn, không có khả năng thực hiện nộp số tiền sai phạm hoặc đã bị giải thể, thay đổi địa chỉ kinh doanh sang địa phương khác dẫn đến việc thu hồi tiền rất khó khăn, có nhiều trường hợp không thể thu hồi được dẫn đến việc theo dõi thu hồi tiền vi phạm qua thanh tra kéo dài hàng chục năm nhưng không có quy định xử lý những trường hợp này.
- Hiện nay, chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực thuộc phạm viquản lý nhà nướccủa các cơ quan thanh tra nhà nước. Bên cạnh đó, do quy định về thời hiệu xử lý vi phạm hành chính [12 tháng hoặc 24 tháng], xử lý kỷ luật cán bộ, công chức [24 tháng] và thời kỳ thanh tra [nhiều trường hợp dài hơn 24 tháng] có sự khác nhau hoặc những vụ việc chuyển cơ quan điều tra, khi cơ quan điều tra kết luận không đủ cơ sở khởi tố hình sự và gửi trả hồ sơ cho cơ quan thanh tra để xem xét, xử lý hành chính thì hầu hết vụ việc đều không còn thời hiệu xử lý. Do đó, nhiều hành vi vi phạm phát hiện qua thanh tra không có cơ sở để xử lý đối với người vi phạm, hành vi vi phạm hoặc quá thời hiệu xử lý.
2.Một sốgiải pháp,kiến nghị
Để nâng cao chất lượng kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra cần phải tăng cường nhận thức về vị trí, vai trò của công tác thanh tra; hoàn thiện các quy định pháp luật về xây dựng, ban hành kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra; nâng cao chất lượng thực hiện kết luận, kiến nghị sau thanh tra; nâng cao vai trò, trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra; tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thanh tra với cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra.
Đối với giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật, từ thực trạng quy định pháp luật nêu trên, để việc xây dựng, ban hành kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra đạt hiệu lực, hiệu quả cao, cần phải nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về xây dựng, ban hành kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra, cụ thể:
Thứ nhất, về hoàn thiện quy định pháp luật về xây dựng, ban hành kết luận thanh tra
-Cần làm rõ giá trị pháp lý của k ết luận thanh tra để có cơ sở cho việc quy định quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra. Cần quy định rõ về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với kết luận thanh tra hành chính và kết luận thanh tra chuyên ngành.
- Nghiên cứu, xây dựng quy định cụ thể về hoạt động thẩm định dự thảo kết luận thanh tra[căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, giá trị pháp lý của thẩm định, việc xử lý khi thẩm định khác với dự thảo kết luận thanh tra]để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả, đảm bảo tính hợp pháp, chính xác, khách quan của kết luận thanh tra sau khi ban hành.
- Nghiên cứu để quy định thời hạn, thời gian ban hành kết luận thanh tra theo hướng mở hơn và tính đến các yếu tố khách quan để phù hợp với thực tiễn.
- Nghiên cứu sửa đổi quy định về công khai kết luận thanh tra theo hướng bổ sung quy định một số trường hợp đặc thù không bắt buộc công khai kết luận thanh tra bằng hình thức phải công bố tại cuộc họp với các thành phần bao gồm người ra quyết định thanh tra, Đoàn thanh tra, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 39 Luật Thanh tra mà chỉ cần gửi kết luận cho đối tượng thanh tra tự công bố với các thành phần liên quan và niêm yết tại trụ sở của đối tượng thanh tra [đối với một số trường hợp: một số kết luận thanh tra chuyên ngành, nội dung kết luận thanh tra rõ ràng, đơn giản; các kết luận thanh tra đối với đối tượng thanh tra ở xa nhưng đã được trao đổi dự thảo Kết luận thanh tra với đối tượng thanh tra trước khi ký ban hành kết luận thanh tra].
- Nghiên cứu đưa ra những quy định cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thi hành về kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra như căn cứ kiểm tra, trách nhiệm của đơn vị, cá nhân được giao nhiệm vụ kiểm tra, nội dung kiểm tra, trình tự, thủ tục kiểm tra, xử lý kết quả kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra, quyết định xử lý sau thanh tra.
- Bổ sung quy định điều chỉnh nội dung kết luận thanh tra như căn cứ, thẩm quyền, hình thức ban hành. Quy định các trường hợp được thay đổi, điều chỉnh một số nội dung hoặc biện pháp xử lý của kết luận thanh tra hoặc quyết định xử lý về thanh tra trong quá trình theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra nhưng phát hiện có sai sót hoặc để phù hợp với thực tiễn và để đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tổ chức thực hiện được.
Thứ hai, về hoàn thiện quy định pháp luật về thực hiện kết luận thanh tra
- Quy định chi tiết thời gian, thời hạn thực hiện kết luận thanh tra, văn bản chỉ đạo, yêu cầu, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, báo cáo kết quả thực hiện kết luận thanh tra của đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Hoàn thiện quy định về thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra, trong đó bổ sung các biện pháp bảo đảm thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt về cho Nhà nước; quy định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, đối tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện; trách nhiệm của cơ quan thanh tra trong theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện.
- Quy định chi tiết về công khai kết quả xử lý kết quả đôn đốc,kiểm tra việc thực hiện kết luận thanh tra.
- Ban hành Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh tra, trong đó quy định chế tài xử lý, biện pháp cưỡng chế đối với các tổ chức, cá nhân khi hết thời hạn trong kết luận thanh tra mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu trong kết luận thanh tra nhằm nâng cao giá trị pháp lý của kết luận thanh tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra nói riêng và công tác quản lý nhà nước nói chung, qua đó, hạn chế việc phải đôn đốc nhiều lần mà tổ chức, cá nhân vẫn không thực hiện./.
ThS. Hồ Thị Thu AnTrưởng phòng, Vụ Pháp chế, TTCP​


04/12/2018

1. Theo cách hiểu thông thường, đối tượng [danh từ] là người, vật, hiện tượng mà con người tác động tới [trong suy nghĩ, hành động]. Tuy nhiên, cũng có cách hiểu khác, đối tượng có thể là hiện tượng, vấn đề hay nội dung đang diễn ra trong xã hội mà con người cần tác động tới để đưa ra nhận xét, đánh giá hoặc làm rõ. Trong hoạt động thanh tra, đối tượng thanh tra có thể là một tập thể [Ủy ban nhân dân, Bộ, ngành, Tập đoàn, Tổng công ty, Hội đồng quản trị], đối tượng thanh tra cũng có thể là một cá nhân [Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Giám đốc sở, Giám đốc doanh nghiệp]; đối tượng thanh tra cũng có thể là một hiện tượng, nội dung, lĩnh vực quản lý [quản lý nhà nước về y tế, giáo dục; cổ phần hóa, quản lý sử dụng vốn, tài sản công] hay một chính sách cụ thể [chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách người có công, chính sách về an sinh xã hội]. Tuy nhiên, với cách hiểu thông thường thì đối tượng thanh tra được hiểu là chủ thể có quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định mà hoạt động thanh tra tác động đến nhằm xem xét, đánh giá, kết luận việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hoặc một công việc cụ thể có liên quan trực tiếp tới nội dung thanh tra.

Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành không đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra và đối tượng có liên quan đến hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, trong khái niệm về thanh tra có đề cập đến nội hàm về đối tượng thanh tra. Theo đó, Luật Thanh tra năm 2010 quy định:Thanh tra nhà nướclà hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành [Khoản 1, Điều 3].

Luật Thanh tra năm 2010 cũng đưa ra khái niệm về hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Cụ thể, Thanh tra hành chínhlà hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao [Khoản 2, Điều 3]; Thanh tra chuyên ngànhlà hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực [Khoản 3, Điều 3].

Có thể nhận thấy, Luật Thanh tra 2010 đã có sự không thống nhất khi quy định về phạm trù về đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra. Trong khái niệm về thanh tra nhà nước, đối tượng thanh tra được xác định là việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong khái niệm về hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, đối tượng thanh tra được xác định là cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Luật Thanh tra năm 2010 không đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra [là chủ thể hay hoạt động], nhưng trong các điều luật khác hoặc các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đều tiếp cận đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Cụ thể, Điều 10 Luật Thanh tra năm 2010 quy định về trách nhiệm và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan: [i] Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra, có quyền giải trình về nội dung thanh tra, có quyền và trách nhiệm khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. [ii] Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra phải cung cấp đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin, tài liệu đã cung cấp; có quyền và trách nhiệm khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra quy định thông báo về việc công bố quyết định thanh tra hành chính [Điều 25]. Theo đó, [i] Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm thông báo đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chuẩn bị văn bản để người ra quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền thông báo đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Thông báo phải nêu rõ thời gian, địa điểm, thành phần tham dự; [ii] Thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra gồm có đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì thanh tra, Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra. Trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra mời đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự buổi công bố quyết định thanh tra.

2. Trên thực tế, cả về phương diện pháp lý và thực tiễn xác định đối tượng thanh tra còn có những tồn tại, hạn chế cụ thể như sau:

Thứ nhất, pháp luật về thanh tra không quy định khái niệm về đối tượng thanh tra; đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra.

Việc không đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra và đối tượng có liên quan trong các văn bản pháp luật về thanh tra đã ảnh hưởng, gây khó khăn tới việc xác định nội dung, phạm vi, thời hạn thanh tra; là một trong những nguyên nhân dẫn tới có hiện tượng một số Đoàn thanh tra mở rộng phạm vi thanh tra, tiến hành kiểm tra, xác minh tới nhiều đơn vị, doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. Trong các cuộc thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, việc xác định ranh giới đâu là đối tượng thanh tra, đâu là đối tượng có liên quan cần kiểm tra, xác minh là rất quan trọng. Đó là các cơ quan tham mưu, giúp việc cho chủ thể quản lý [cơ quan được giao quản lý nhà nước về lĩnh vực thanh tra]; hoặc cơ quan được phân cấp thực hiện quản lý nhà nước; cơ quan quản lý về tài chính, thuế, kế hoạch đầu tư. Ngoài ra, các đối tượng liên quan mà cơ quan thanh tra tiến hành kiểm tra, xác minh [doanh nghiệp, cơ quan hải quan, cơ quan giám định, ngân hàng]. Mỗi chủ thể này được giao quản lý hoặc thực hiện những công việc khác nhau và có quyền, nghĩa vụ khác nhau nên việc không quy định rõ đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan sẽ khó xác định được chính xác phạm vi, nội dung, thời hạn thanh tra; trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện từng nội dung thanh tra, kiểm tra, xác minh.

Thứ hai, pháp luật về thanh tra chưa có hướng dẫn cụ thể về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động thanh tra.

Theo quy định pháp luật thanh tra, không bố trí làm Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra đối với những người có bố đẻ, mẹ đẻ; bố vợ hoặc bố chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng; vợ hoặc chồng, con ruột, con rể hoặc con dâu, anh, chị, em ruột là đối tượng thanh tra hoặc có mối quan hệ thân thiết với đối tượng thanh tra làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động thanh tra[1]. Việc quy định nêu trên gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện vì không xác định được cụ thể đối tượng thanh tra khi ban hành quyết định thanh tra. Nếu trong quyết định thanh tra xác định thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản công tại Tập đoàn A thì Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, trưởng các Ban tài chính, nhân sự, kế hoạch, Giám đốc các Công ty thành viên là đối tượng thanh tra hay toàn thể cán bộ, nhân viên của Tập đoàn là đối tượng thanh tra.

Quy định về không bố trí cán bộ thanh tra tham gia Đoàn thanh tra khi có người thân là đối tượng thanh tra là không phù hợp, không có cơ sở để xác định như thế nào là người thân của cán bộ thanh tra. Trên thực tế, có những mối quan hệ họ hàng với cán bộ thanh tra nhưng lại không có mức độ thân thiết bằng những mối quan hệ xã hội khác khi cán bộ thanh tra có những ràng buộc nhất định trong các mối quan hệ xã hội. Đây là những vấn đề cần có quy định chi tiết để thực hiện trên thực tế.

Thứ ba, pháp luật về thanh tra chưa xác định đầy đủ, rõ ràng về quyền của đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra; chưa có cơ chế pháp lý đầy đủ, chặt chẽ để đối tượng thanh tra thực hiện quyền của mình trong hoạt động thanh tra.

Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về quyền của các đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra mà chỉ quy định nghĩa vụ của các chủ thể này trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu cho Đoàn thanh tra; nghĩa vụ thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra. Về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ phải đi cùng nhau. Pháp luật thanh tra quy định đối tượng có liên quan phải cung cấp hồ sơ, tài liệu; thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra thì phải quy định cho họ quyền được từ chối cung cấp hồ sơ, tài liệu khi Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu vượt quá nội dung, phạm vi thanh tra, khi Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp trong khoảng thời gian không thể cung cấp kịp thời; quyền giải trình về những vấn đề được nêu trong dự thảo Kết luận thanh tra khi kết luận thanh tra đề cập đến những vấn đề liên quan đến họ [tương tự như quyền của đối tượng thanh tra]; quyền phản ánh, tố cáo đối với hành vi phạm của cán bộ thanh tra trong hoạt động thanh tra; kiến nghị, khiếu nại đối với Kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra.

Về thực hiện quyền đối tượng thanh tra, cụ thể là thực hiện quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra. Pháp luật thanh tra chưa có cơ chế riêng biệt để đối tượng thanh tra thực hiện quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra một cách thuận lợi, phù hợp với tính chất hoạt động của Đoàn thanh tra. Theo đó, việc khiếu nại đối với kết luận thanh tra được thực hiện theo pháp luật về khiếu nại. Nghị định 86/2011/NĐ-CP quy định Thủ trưởng cơ quan thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đã có kết luận hoặc quyết định xử lý về thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Quy định này cũng tương tự như thẩm quyền giải quyết trong khiếu nại hành chính, đó là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị có quyết định hành chính bị khiếu nại thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Tuy nhiên, trong hoạt động thanh tra, thẩm quyền ra quyết định thanh tra thuộc hai chủ thể khác nhau: Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước và Thủ trưởng cơ quan thanh tra.

Theo Luật Khiếu nại năm 2011, trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các chủ thể là khác nhau, được xác định theo thứ bậc hành chính. Nếu là Thủ trưởng cơ quan thanh tra ra quyết định thanh tra, thì họ là người giải quyết khiếu nại đối với kết luận thanh tra do mình ban hành [lần một] và thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thuộc về Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Điều đó cho thấy, việc giải quyết khiếu nại đối với kết luận thanh tra [xét về bản chất có nội dung giống nhau] lại do hai cấp khác nhau giải quyết và điều đó có thể dẫn đến kết quả giải quyết là khác nhau và không đảm bảo sự bình đẳng đối với đối tượng thanh tra.

Thứ tư, còn hiện tượng cán bộ, công chức cố tình thực hiện thanh tra vượt quá phạm vi, nội dung, đối tượng nhằm mục đích vụ lợi.

Trên thực tế cho thấy, với những quy định không đầy đủ, rõ ràng về đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan là một trong những nguyên nhân dẫn tới cán bộ thanh tra trong hoạt động của mình đã lợi dụng sự thiếu đầy đủ của pháp luật để thực hiện các hành vi tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể là việc không xác định đầy đủ các đối tượng có liên quan đến nội dung thanh tra trong quyết định thanh tra, kế hoạch thanh tra khi tiến hành thanh tra để thực hiện việc kiểm tra, xác minh với nhiều đối tượng; kiểm tra, xác minh tràn lan với nhiều đối tượng khác nhau. Những hành vi thanh tra, kiểm tra, xác minh vượt quá phạm vi, nội dung thanh tra là nhằm mục đích nhũng nhiễu, vòi vĩnh của cán bộ thanh tra đối với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là đối tượng có liên quan đến hoạt động thanh tra. Điều này dẫn đến cuộc thanh tra không có trọng tâm, trọng điểm; việc thanh tra vượt phạm vi, nội dung, đối tượng thanh tra; Thủ trưởng cơ quan thanh tra khó quản lý thành viên Đoàn thanh tra, có nguy cơ dẫn đến hành vi tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra.

3. Việc xác định đầy đủ, rõ ràng và thống nhất về đối tượng thanh tra có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra; góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch và phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. Để thực hiện mục tiêu này, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, quy định khái niệm về đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan trong Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Hiện tại, pháp luật về thanh tra không quy định khái niệm về đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan. Khoản 3, Điều 3 Dự thảo Thông tư quy định các quy trình nghiệp vụ về thanh tra, tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng [dự thảo Thông tư] do Thanh tra Chính phủ chủ trì soạn thảo đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra như sau: Đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nhà nước cùng cấp với cơ quan được giao tiến hành cuộc thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được xác định trong quyết định thanh tra.

Khái niệm về đối tượng thanh tra theo dự thảo Thông tư có điểm tương đồng với cách tiếp cận của bài viết là xác định đối tượng thanh tra là chủ thể [tổ chức hoặc cá nhân]. Tuy nhiên, trong khái niệm nêu trên chưa phù hợp ở việc xác định đối tượng thanh tra thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nhà nước cùng cấp với cơ quan được giao tiến hành cuộc thanh tra là chưa đầy đủ. Các doanh nghiệp tư nhân cũng là đối tượng thanh tra của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính [thanh tra do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao; thanh tra việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng] nhưng đối tượng này không thuộc thẩm quyền quản lý của chủ thể này; các Doanh nghiệp Nhà nước hiện giờ cũng tách bạch rõ ràng chức năng quản lý nhà nước theo cơ chế bộ chủ quản trước đây và chức năng đại diện vốn chủ sở hữu tại doanh nghiệp. Trong khi đó, việc thực hiện cơ chế phân cấp, uỷ quyền đã tạo ra những vấn đề về mặt quản lý khác nhau, nhiều khi Uỷ ban nhân dân cấp huyện cũng là đối thượng thanh tra của Thanh tra Chính phủ khi được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phân cấp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được pháp luật quy định - và rõ ràng Uỷ ban nhân dân cấp huyện không phải là đối tượng quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp với Thanh tra Chính phủ.

Vì vậy, đối tượng thanh tra nên được tiếp cận theo hướng là cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp với cơ quan được giao tiến hành thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan trực tiếp tới nội dung thanh tra. Đối tượng thanh tra được xác định trong quyết định thanh tra hoặc các văn bản có liên quan đến hoạt động thanh tra; đối tượng thanh tra phải được xác định rõ ràng, đầy đủ và được công khai khi công bố quyết định thanh tra.

Thứ hai, quy định đầy đủ các vấn đề pháp lý về đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra.

Luật Thanh tra cần quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của đối tượng có liên quan trong việc: Quyền từ chối cung cấp thông tin, tài liệu cho Đoàn thanh tra khi Đoàn thanh tra không thực hiện đầy đủ yêu cầu, trình tự thủ tục về cung cấp thông tin trong hoạt động thanh tra; yêu cầu cung cấp thông tin vượt quá phạm vi, nội dung thanh tra; quy định quyền giải trình về những vấn đề được nêu trong dự thảo Kết luận thanh tra khi kết luận thanh tra đề cập đến những vi phạm của họ [tương tự như quyền của đối tượng thanh tra]; quyền phản ánh, tố cáo đối với hành vi phạm của cán bộ thanh tra trong hoạt động thanh tra; quyền kiến nghị, khiếu nại đối với Kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra.

Luật Thanh tra cần thể chế hoá chế tài xử lý đối với đối tượng có liên quan cố tình không hợp tác với Đoàn thanh tra trong việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động thanh tra khi được Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp theo đúng trình tự, thủ tục; nội dung thông tin, tài liệu có liên quan trực tiếp tới hoạt động thanh tra và trong phạm vi quản lý của chủ thể này; chế tài xử lý trong trường hợp không thực hiện đầy đủ kết luận thanh tra.

Thứ ba, xây dựng cơ chế khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra.

Pháp luật thanh tra hiện chưa có cơ chế riêng biệt để đối tượng thanh tra thực hiện quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra một cách thuận lợi, phù hợp với tính chất hoạt động của Đoàn thanh tra. Theo quy định hiện hành, việc khiếu nại đối với kết luận thanh tra được thực hiện theo pháp luật về khiếu nại, quy định này là không phù hợp với những đặc thù của hoạt động thanh tra. Vì cơ chế giải quyết khiếu nại theo Luật Khiếu nại thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính, trong khi khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra cần được giải quyết trong phạm vi cơ quan thanh tra vì hoạt động thanh tra có những đặc thù mang tính nghiệp vụ và cơ chế hoạt động độc lập tương đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.

Vì vậy, Thanh tra Chính phủ cần ban hành cơ chế giải quyết khiếu nại riêng biệt trong hoạt động thanh tra, trong đó quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu của Trưởng đoàn thanh tra, thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai là của Thủ trưởng cơ quan thanh tra. Cơ chế giải quyết khiếu nại cũng cần quy định rõ vai trò, trách nhiệm của các đơn vị, bộ phậm tham mưu [Giám sát, thẩm định dự thảo kết luận thanh tra; bộ phận Pháp chế, Tổ chức cán bộ] trong việc kiểm tra, xác minh vụ việc khiếu nại, tố cáo.

Thứ tư, tăng cường trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra trong việc kiểm soát hoạt động thanh tra.

Trên thực tế, còn hiện tượng cán bộ, công chức cố tình thực hiện thanh tra vượt quá phạm vi, nội dung, đối tượng nhằm mục đích vụ lợi. Biểu hiện phổ biến của tình trạng này là Đoàn thanh tra đưa nhiều đơn vị, doanh nghiệp là những đối tượng có liên quan đến nội dung thanh tra để tiến hành thanh tra, kiểm tra, xác minh; yêu cầu đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan cung cấp nhiều hồ sơ, tài liệu để tiến hành kiểm tra, xác minh nhưng không đưa vào biên bản làm việc. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự quản lý chưa chặt chẽ của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra; có sự bao che, làm ngơ hay thiếu trách nhiệm trong quản lý của các chủ thể này.

Thực tế, bằng các biện pháp quản lý, biện pháp nghiệp vụ, Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra hoàn toàn có thể kiểm soát hoạt động của các thành viên Đoàn thanh tra thông qua việc kiểm tra kế hoạch làm việc của các thành viên; phê duyệt danh sách các đối tượng cần kiểm tra, xác minh; yêu cầu Đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch kiểm tra, xác minh đối với những đối tượng có liên quan, có báo cáo kết quả cụ thể việc kiểm tra, xác minh; ghi nhật ký Đoàn thanh tra theo ngày làm việc; nắm thông tin từ các cơ quan quản lý, từ đối tượng thanh tra đối với hoạt động của Đoàn thanh tra... Vì vậy, việc kiểm soát của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra nếu được làm tốt sẽ hạn chế được việc cán bộ, công chức thực hiện ngoài phạm vi, nội dung, đối tượng thanh tra, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. Do đó, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra trong kiểm soát hoạt động thanh tra, góp phần phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra.

ThS. Lê Văn Đức
Phó Trưởng Phòng Thông tin - Tư liệu và Thư viện
Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra

[1] Điều 9 Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra.

Video liên quan

Chủ Đề