Vì sao nhật phải đánh mĩ

Trong cuốn sách vừa được xuất bản mang tên Countdown to Pearl Harbor: The Twelve Days to the Attack [tạm dịch Trân Châu Cảng: 12 ngày trước cuộc tấn công], nhà báo đoạt giải Pulitzer Steve Twomey đã phân tích những nguyên nhân vì sao Mỹ hoàn toàn bị động trước đòn sấm sét của Nhật Bản. Cuốn sách được công bố ngay trước thời điểm nước Mỹ tổ chức lễ kỷ niệm 75 năm trận chiến Trân Châu Cảng vào ngày 7.12 tới.

Ngày ô nhục 7 giờ 40 phút chủ nhật 7.12.1941, trong lúc lính Mỹ còn đang say giấc tại căn cứ của Hạm đội Thái Bình Dương ở Hawaii, hàng trăm chiến đấu cơ của hải quân Nhật Bản bất ngờ tấn công ồ ạt như đàn ong vỡ tổ. Cuộc tấn công bao gồm hai đợt không kích với tổng cộng 353 máy bay xuất kích từ 6 tàu sân bay Nhật Bản đã để lại hậu quả nặng nề, 2.400 binh sĩ cùng thủy thủ Mỹ thiệt mạng và hơn 1.000 người khác bị thương.

Cuộc tấn công chớp nhoáng cũng đánh chìm và gây hư hỏng toàn bộ 8 tàu chiến, 3 tàu tuần dương, 3 tàu khu trục và 1 tàu rải thủy lôi của hải quân Mỹ. Gần 200 chiến đấu cơ của Mỹ bị phá hủy. Trước tổn thất lớn của hải quân, Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ Franklin D.Roosevelt đã gọi đây là “ngày ô nhục”. Còn Nhật Bản thiệt hại ít hơn, chỉ mất 29 máy bay, 5 tàu ngầm nhỏ và 64 người thiệt mạng.

Đòn tấn công quân sự bất ngờ của hải quân Nhật Bản đã dẫn đến việc Washington tuyên chiến với Tokyo và sau đó quyết định tham gia các chiến dịch quân sự ở Thái Bình Dương trong Thế chiến 2. Về phía Nhật Bản, với chiến thắng tại Trân Châu Cảng, hải quân nước này đã cầm chân được Hạm đội Thái Bình Dương, ngăn lực lượng này can thiệp vào cuộc chiến mà Tokyo đang tiến hành nhằm đánh chiếm nhiều nước ở Đông Nam Á, qua đó làm chủ vùng biển châu Á - Thái Bình Dương.

Cuộc đời ly kỳ của người lính Triều Tiên trong Thế chiến 2

Chủ quan khinh địch

Trong cuốn sách, tác giả người Mỹ Steve Twomey - cựu phóng viên của tờ The Washington Post - đã khai thác các chứng cứ phong phú, hồi ký và các nguồn tài liệu khác để đưa ra kết luận rằng sự phán đoán sai lầm và thiếu thông tin của giới lãnh đạo Mỹ góp phần dẫn đến thảm kịch trên. Nhà báo Twomey phân tích rằng Mỹ đại bại còn do sự mất cảnh giác, không sẵn sàng chiến đấu và thái độ chủ quan khinh địch, thiếu trí tưởng tượng của các quan chức chỉ huy hải quân Mỹ tại Hawaii.

Trong khi đó, kẻ thù của Mỹ, đại diện là Đô đốc Isoroku Yamamoto của Nhật Bản, lại có tất cả những điều trên. Đô đốc Yamamoto thậm chí đã dám đặt cược rằng ông có thể đưa 6 tàu sân bay và hàng chục tàu chiến khác băng ngang Thái Bình Dương, bất chấp nguy cơ dễ bị phát hiện cũng như khó khăn trong việc tiếp nhiên liệu giữa đại dương để thực hiện một cuộc tấn công bất ngờ nhằm vào Mỹ. Và ông đã thành công.

Từ trước tới nay chưa một ai từng huy động nhiều tàu sân bay cho một cuộc tấn công phối hợp, song hải quân Nhật Bản đã làm được. Họ hiểu được giá trị của các tàu sân bay nên đã cho đóng 10 tàu loại này vào cuối năm 1941. Còn hải quân Mỹ, vẫn trung thành với loại tàu chiến kiểu cũ, chỉ có 3 tàu sân bay tại Thái Bình Dương.

Vận may của Mỹ

Mặc dù Nhật Bản mở hai đợt oanh kích tàn phá các tàu chiến của Mỹ tại Trân Châu Cảng song những thiệt hại từ Washington không nghiêm trọng như Đô đốc Yamamoto từng kỳ vọng. Đội phi công của ông không thể phá hủy các kho chứa nhiên liệu, các trạm phát điện, xưởng tàu, xưởng sửa chữa cùng các bến tàu dành cho tàu ngầm và trung tâm chỉ huy. Nhờ đó, hải quân Mỹ, mà cụ thể là Hạm đội Thái Bình Dương, mau chóng hồi phục.

Quan trọng hơn, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Kimmel tình cờ đã điều hai tàu sân bay USS Enterprise và USS Lexington chở các máy bay chiến đấu đến đảo Midway và Wake vài ngày trước đó. Chính các tàu USS Enterprise và USS Lexington về sau đã đóng vai trò quan trọng giúp hải quân Mỹ giành chiến thắng trước Nhật Bản trong các trận hải chiến then chốt Midway [diễn ra từ ngày 4 - 7.6.1942] và Coral Sea [4 - 8.5.1942], góp phần bẻ gãy đà tiến công của hải quân Nhật, đem lại thế chủ công cho hải quân Mỹ.

Ngoài ra, do Trân Châu Cảng có vị trí đắc địa - nằm ở phía tây thành phố Honolulu trên đảo Oahu thuộc bang Hawaii, là hải cảng nước sâu nằm giữa vùng bắc Thái Bình Dương nên hải quân Mỹ xem đây là nơi trú ẩn an toàn, tin chắc rằng không ai dám “lao vào cửa tử”. Mỹ sử dụng Trân Châu Cảng làm căn cứ chỉ huy, hậu cần, cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa các chiến hạm của Hạm đội Thái Bình Dương. Còn người Nhật Bản lại xem đây là mục tiêu cần phải tấn công.

Theo tờ The New York Times dẫn lời nhà báo Twomey, một số quan chức hải quân Mỹ khi đó đã quá tự tin, tự mãn, đánh giá thấp quân đội Nhật Bản, xem đối phương chỉ thuộc hàng “chiếu dưới” và tập trung quá nhiều vào huấn luyện đến nỗi bị “mù” trước mối đe dọa từ các máy bay hiện đại được trang bị ngư lôi của Nhật Bản.

Những tín hiệu bị bỏ lỡ

Theo nhà báo Twomey, chính phủ Mỹ cùng giới chức hải quân nước này thật ra đã lường trước sẽ có cuộc tấn công của quân đội Nhật Bản trong năm 1941 song họ đã đoán sai địa điểm. Thật vậy, hầu hết lãnh đạo Mỹ - bao gồm cả Tổng thống Roosevelt và Đô đốc Husband E.Kimmel, chỉ huy Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng - đều cho rằng chiến tranh tại Thái Bình Dương là điều không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên hầu như không ai trong số họ mường tượng rằng cuộc chiến sẽ bắt đầu ngay tại Trân Châu Cảng. Trong tâm trí của các lãnh đạo Mỹ thời đó, Trân Châu Cảng quá xa Nhật Bản và Tokyo cũng chỉ dám tấn công Mỹ ở các khu vực gần lãnh thổ Nhật Bản. Tổng thống Roosevelt thậm chí đã điều Hạm đội Thái Bình Dương từ bờ biển phía tây nước Mỹ đến Hawaii hồi đầu năm 1941 để nhắc nhở người Nhật Bản rằng Thái Bình Dương không còn là sân chơi của riêng Tokyo.

Giới lãnh đạo Mỹ cũng nghĩ rằng người Nhật Bản không thể điều khiển máy bay cất cánh từ tàu sân bay, các chiến đấu cơ của họ không thể chở đủ lượng lớn bom để đánh đắm các tàu chiến Mỹ, và quân Nhật Bản không thể thắng trong cuộc chiến dài hơn với nước có sức mạnh công nghiệp lớn hơn.

Trong năm 1941, do Washington đã bí mật đọc điện tín ngoại giao của Nhật Bản nên giới chức Mỹ biết rõ những động thái bất thường từ Tokyo. Các tư lệnh lục quân và hải quân Mỹ liên tục cảnh báo Đô đốc Kimmel và các vị tư lệnh khác ở Thái Bình Dương về một cuộc tấn công sắp xảy ra, song chỉ không rõ ở đâu và thời điểm nào.

Mười ngày trước trận chiến Trân Châu Cảng, Bộ Hải quân Mỹ ở Washington thậm chí đã đưa ra “lời cảnh báo chiến tranh” cho các lực lượng hải quân tại Trân Châu Cảng, đồng thời ra lệnh ngắn gọn cho Đô đốc Kimmel “triển khai phòng thủ thích hợp”. Do lời cảnh báo không đề cập đến Hawaii nên ông Kimmel đã phớt lờ. Đơn giản là vì ông quá tập trung vào việc lên kế hoạch chống người Nhật ở nơi khác tại Thái Bình Dương. Không riêng Đô đốc Kimmel, mà cả một số quan chức chính phủ và quân đội Mỹ đều cho rằng Tokyo sẽ tấn công Mỹ ở khu vực tây nam Thái Bình Dương, chứ không phải ở phía đông Hawaii.

Bản thân Đô đốc Kimmel còn nghĩ rằng Hạm đội Thái Bình Dương của mình không thể bí mật xâm nhập vào lãnh hải Nhật Bản, mở cuộc tấn công ồ ạt rồi rút lui nên ông cho rằng người Nhật Bản cũng không thể làm được điều tương tự với Trân Châu Cảng. Vì thế, ông đã không có các biện pháp phòng ngừa để bảo vệ đội tàu chiến đang thả neo, không mở hệ thống radar 24/24, không điều máy bay trinh sát tuần tra ngoài bờ biển, không cắt cử người vận hành súng phòng không…

Tại Washington, giới chức Bộ Hải quân Mỹ thì tin chắc rằng ông Kimmel đã cho dời các tàu sân bay khỏi nơi nguy hiểm và đã chuẩn bị sẵn sàng phòng thủ nên cũng không đánh điện kiểm tra tình hình.

Trong khi đó, trung tướng Walter C.Short - Tư lệnh Bộ Chỉ huy Hawaii của lục quân - lại không có tầm nhìn xa. Mối bận tâm của ông chỉ là các cuộc phá hoại trong vùng, chứ không phải là một cuộc không kích từ tàu Nhật Bản. Ông và Kimmel hiếm khi trao đổi thông tin, và trụ sở riêng biệt của họ thậm chí còn không có một đường dây điện thoại trực tiếp. Cả hai đều nghĩ rằng chính người kia phụ trách bảo vệ Oahu. Vì thế, không ai trong tư thế sẵn sàng chiến đấu khi 350 chiếc máy bay Nhật Bản gầm rú trên bầu trời Hawaii.

Sau trận chiến Trân Châu Cảng, cả hai ông Kimmel và Short đều mất chức tư lệnh. Cuộc điều tra sau đó cho thấy họ đã “xao nhãng nhiệm vụ” khi “không hội ý và hợp tác”. Nhưng với Thế chiến 2 đang diễn ra ác liệt, không ai trong số họ phải ra trình diện tòa án quân sự.

Tin liên quan

Lưỡi kiếm đêm trăng tháng 03/1945: Nhật lật Pháp

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh,

Đặc sứ của chính phủ Nhật, Hajime Matsumiya [phải] được một sỹ quan Pháp và Tổng lãnh sự Nhật Rokuro Suzuki [giữa] hộ tống duyệt một đơn vị lính thuộc địa ở Hải Phòng tháng 11/1940

Chiến dịch Meigo Sakusen chỉ trong một đêm 9/03/1945 đã chính thức xóa sổ chế độ thực dân gần 100 năm của người Pháp tại Đông Dương.

Nhưng các diễn biến sau đó cho thấy các bên đều không có ý tưởng rõ rệt về tương lai Việt Nam trong những ngày cuối của Thế Chiến 2 ở Á châu.

Sự kiện 'Nhật hất cẳng Pháp' hay được mô tả là êm đẹp, chỉ 'thay thầy đổi chủ' tại Đông Dương sau thời 'một cổ hai tròng' với người bản địa từ cuối 1940.

1945-1975: Tính chính thống và chủ quyền quốc gia

Quảng cáo

Năm 1945: Cướp chính quyền và thay quyền dân

Lính SS cũng thua Việt Minh ở Điện Biên

Cuộc chiến ít biết của quân Anh ở Việt Nam

Nhưng lần đầu tiên ở Việt Nam, sự tàn bạo của quân phiệt Nhật đã lộ ra trong chiến dịch mà họ gọi là 'Minh Hào Tác Chiến' [Bright Moon - Trăng Sáng].

Xin điểm qua một số diễn biến chính trích theo Fridrik Logevall trong 'Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America's Vietnam' và các nguồn khác.

- Sáng ngày 10/03, quân Nhật tràn vào dinh thự của Toàn quyền, Đô đốc Jean Decoux ở Sài Gòn, bắt ngay ông ta và các quan chức cao cấp Pháp;

-Tại Hà Nội, tướng Eugene Mordant trèo tường trốn vào thành Hà Nội [khu Cột Cờ] sau khi quân Pháp đọ súng với quân Nhật. Mordant là thủ lĩnh phe de Gaulle ngầm chống Nhật ở Việt Nam, nhưng ông ta đã nhanh chóng trèo ra phố, đi chân đất trốn vào nhà dân rồi đầu hàng. Người kế nhiệm ông, Tướng Georges Ayme, tiếp tục chỉ huy lính kháng cự rồi thua quân Nhật. Sau trận đánh ở Hà Nội, có 87 người Âu, 100 người Việt bị giết. Quân Nhật cũng có hơn 100 lính tử trận;

-Ở Bắc Giang, quân Pháp bị bắt toàn bộ và một số phụ nữ Pháp, gồm cả vợ của quan đầu tỉnh bị lính Nhật hiếp tập thể;

-Có tin về các buổi hành hình người Pháp: quân Nhật thường dùng kiếm dài chặt đầu họ;

-Tại Lạng Sơn giao tranh kéo dài nhất nhưng đến chập tối ngày 10/03 thì Pháp thua. Chừng 4000 quân phía Pháp chỉ có trên 500 người Âu, còn lại là lính Việt. Sau khi chặt đầu tướng Emile Lemonnier vì ông từ chối ký giấy đầu hàng, sư đoàn 22 của Nhật bắt toàn bộ tù binh Pháp và Âu [lính lê-dương] sắp hàng trước mũi súng máy để hành quyết. Với những người gục xuống chưa chết, quân Nhật xung phong, dùng lưỡi lê đâm cho chết hẳn.

-Ở Lào và Campuchia, quân Nhật không gặp kháng cự gì đáng kể và nhanh chóng thay Pháp chiếm Phnom Penh, Vientianne, Thakkhet, Luang Prabang.

Nguồn hình ảnh, Hulton Archive

Chụp lại hình ảnh,

Châu Á dưới ách phát-xít Nhật: súng gắn lưỡi lê, kiếm và cờ Nhật

- Ở Việt Nam, vài nghìn tàn quân Pháp-Âu do hai tướng Marcel Alessandri và Gabriel Sabbattier chỉ huy chạy lên phía Tây Bắc và tìm đường chạy sang Lào.

Tướng Charles de Gaulle từ châu Âu đột nhiên phong Sabbattier làm tư lệnh quân Pháp thuộc phe Đồng Minh ở Đông Dương và ra lệnh ở lại Việt Nam kháng Nhật.

Vấn đề là từ 60 nghìn, Pháp chỉ còn chưa đầy 6000 quân người Âu, không có lính Việt nữa và thiếu đạn dược, lương thực.

Khả năng đương đầu với nhiều sư đoàn thiện chiến của Nhật để giành lại Đông Dương là vô vọng nên Tướng Sabbattier đã quyết định rút sang Nam Trung Quốc.

Chuyển biến tâm lý và thời cơ mới

Băn khoăn về màu cờ cho Việt Nam năm 1945

Ông bà Trịnh Văn Bô và căn nhà niềm tin

Nội các Trần Trọng Kim: 5 thành tựu trong 4 tháng

Mikhail Borodin: Người sếp cũ của Hồ Chí Minh

Chiến dịch Trăng Sáng đã hoàn toàn xóa bỏ sự hiện diện của Pháp ở Việt Nam, tạo ảnh hưởng tâm lý ghê gớm cho người bản xứ.

Sự kiện "ông chủ da trắng đã bị hạ bệ và bị hạ nhục" đã thay đổi tâm trí của người dân Indonesia, Malaya [gồm cả Singapore], và Đông Dương.

Sự bừng tỉnh về danh dự chủng tộc cho người châu Á thấy cơ hội bỏ ách thực dân, theo sử gia Anh, Max Hastings.

Nhưng những gì trước mắt thì còn rất mù mờ.

Quân Nhật vẫn cầm tù 15 nghìn người Pháp và Âu sau khi đã giết trong giao tranh hoặc hành quyết hơn 4000.

Sự tàn bạo của quân Nhật khiến tuyên truyền về Khối Đại Đông Á của Nhật trở nên khó thuyết phục.

Nhưng về quân sự, Pháp thua tại Đông Dương đúng vào lúc Đồng Minh ngày càng nhận thấy vai trò chiến lược của khu vực này cho các trận đánh lớn ở Đông Á.

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh,

Lính Nhật hành quân tiến vào Hải Phòng tháng 9/1940

Một số lính người Việt có năng lực tác chiến, biết dùng vũ khí hiện đại sau khi bị giải tán khỏi lực lượng thuộc địa của Pháp, đã gia nhập các nhóm kháng chiến.

Đông Dương chỉ là chiến trường phụ

Nhưng các đại cường và kể cả quân Nhật đều không có kế hoạch gì cụ thể cho Việt Nam và Đông Dương vào tháng 3/1945.

Nhật đưa quân vào Hải Phòng từ tháng 9/1940 sau khi chính phủ Vichy ở chính quốc đã đầu hàng Đức, đồng minh của Nhật ở châu Âu.

Các chế độ thực dân châu Âu khác như Hà Lan ở Indonesia, Anh Quốc ở Singapore, Miến Điện, Ấn Độ, đều chống lại quân đội Nhật Hoàng.

Riêng Thống chế Petain đồng ý hợp tác với Tokyo biến chính quyền Pháp ở Đông Dương thành bộ máy người Âu duy nhất làm tay sai cho Nhật Bản ở châu Á.

Một số trí thức tự do Pháp coi đây là 'nỗi nhục'.

Jean Paul-Sartre nhận xét: "Trong vòng năm năm, chúng ta đã dần có thêm mặc cảm thấp kém".

Pháp ở Đông Dương còn điều chỉnh giờ Hà Nội [đài thiên văn Phủ Liễn] theo chuẩn mới bên mẫu quốc, dựa vào giờ Berlin, để làm vừa lòng Đức.

Toan tính của Nhật

Tuy nhiên, Nhật Bản cũng chỉ có mục tiêu dùng Việt Nam làm bàn đạp cho các chiến dịch quân sự bên ngoài.

Nhật đưa quân vào Đông Dương lần đầu tháng 9/1940 vì nhu cầu chiến tranh ở Trung Quốc.

Sang năm 1941, Nhật vào miền Nam Việt Nam để chuẩn bị cho chiến dịch chiếm Indonesia khi đó thuộc chế độ thực dân Hà Lan.

Các tư lệnh Đội quân Quan Đông khét tiếng tàn ác và có tham vọng lãnh thổ đã cổ vũ mạnh nhất cho việc đem quân vào Đông Dương.

'Mẹ chọn để tôi có cuộc đời khác tốt đẹp hơn'

Vì sao Việt Nam từng chia cắt ở sông Bến Hải?

Ngoại giao Pháp và những cơ hội bị bỏ lỡ của VN

Nhưng việc quản trị xứ sở to lớn này lại quá sức với bộ máy quân sự viễn chinh.

Nhật Bản có thể đổi Singapore nhỏ bé thành tỉnh Chiêu Nam để trực trị nhưng với Đông Dương có tới 25 triệu dân, họ vẫn phải dùng người Pháp.

Việt Nam trong những nước cờ

Thỏa thuận Kato-Darlan ký tại thành phố Vichy tháng 7/1941 chia ra: miền Bắc do Pháp đảm trách về an ninh, quân sự và ở miền Nam thì do Nhật nắm.

Đây là lần đầu tiên Việt Nam bị chia cắt Nam - Bắc theo một thỏa thuận quốc tế ký kết tại châu Âu.

Nạn đói thảm khốc ở miền Bắc Việt Nam năm 1945 xảy ra một phần vì Nhật tịch thu gạo để phục vụ chiến tranh, một phần vì chế độ phân chia quản trị Nam - Bắc khác nhau giữa Nhật và Pháp khiến lúa Nam Bộ không được chuyển ra Bắc.

Sau khi rút khỏi Singapore, quân Nhật lấy Sài Gòn làm đại bản doanh cho Nguyên soái Terauchi Hisaichi, Tư lệnh Lực lượng Viễn chinh Phương Nam từ 1944.

Nhưng đến đầu năm 1945, Hoa Kỳ và đồng minh ném bom liên tục vào các mục tiêu của Nhật ở Việt Nam.

Ban đầu là các chuyến bay ném bom từ Nam Trung Hoa của quân đoàn do Tướng C. Chennault chỉ huy bắn phá miền Bắc Việt Nam.

Sau đó, phi cơ Hạm đội 3 của Đô đốc William Halsley cũng đánh bom Sài Gòn, Quy Nhơn ở phía Nam.

Lực lượng Đồng minh do Lord Mountbatten của Anh ở Sri Lanka cũng ngày càng thấy Đông Dương quan trọng cho các chiến dịch đẩy Nhật khỏi Đông Nam Á.

Đầu năm 1945, quân Mỹ đã đổ bộ vào Luzon, Philippines và các đơn vị Nhật Bản nay chỉ còn rút về các vùng đất của chính họ.

Về phía mình, các tư lệnh Nhật Bản đang phải đối phó với các chiến hạm Hoa Kỳ tiến vào Iwo Jima và Okinawa trong cách đánh "nhảy đảo" để tới đất liền Nhật Bản.

Theo Fridrik Logevall, các tướng Nhật đã biết họ sẽ thua.

Vai trò của Đông Dương ra không còn nhiều sau khi quân Nhật dùng các cảng như Sài Gòn để chuyển quân đánh chiếm Indonesia [1941] và Singapore [1942].

Quân Nhật từ Lào để đánh vào Ấn Độ nhưng không thành và bị lính Anh chặn lại ở trận Kohima, vùng núi Miện Điện năm 1944.

Tuy thế, theo Logevall, lãnh đạo Nhật tính rằng chiếm toàn bộ Đông Dương tháng 3/1945 có thể giúp cho họ một lá bài để đàm phán với quân Đồng Minh khi cần.

Một số nhóm cực đoan nhất trong giới quân sự Nhật Bản cũng tính đến việc tổ chức kháng cự ở Đông Dương khi cần.

Nguồn hình ảnh, Bettmann

Chụp lại hình ảnh,

Quân Nhật vào Nam Kỳ tháng 1/1941

Cùng lúc, Nhật giao quyền cho Hoàng đế Bảo Đại lập một nội các đã ra được quyết định về giáo dục, chữ Quốc ngữ mà không có quyền gì khác.

Cho đến ngày cuối cùng của chính phủ Trần Trọng Kim, hiến binh Nhật vẫn chặn Đại Nội ở Huế và kiểm soát từng người vào gặp vua Bảo Đại.

Chưa kịp làm gì với Việt Nam thì Nhật Bản bị Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử và đầu hàng.

Đông Dương, nhất là Việt Nam, trở thành 'vùng bỏ ngỏ' để Việt Minh và các đảng phái giành độc lập trong Cách mạng Tháng Tám như chúng ta đã biết.

Luôn là 'number 2'?

Nguồn hình ảnh, Galerie Bilderwelt

Chụp lại hình ảnh,

Bộ trưởng Ngoại giáo Đế quốc Nhật, Mamoru Shigemitsu [đội mũ đen] và Tướng Yoshijiro Umezu, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhật Hoàng cùng các đại diện Bộ Ngoại giao, Lục quân và Hải quân trên chiến hạm USS Missouri để ký văn bản đầu hàng trước quân Đồng Minh ngày 2/09/1945 ở Vịnh Tokyo

Ngày nay nhìn lại, năm 1945 là bài học về thời cơ và thời cuộc lớn cho người Việt Nam.

Về cơ bản, người Việt Nam bị rơi vào hoàn cảnh là 'vị trí địa lý đẹp nhưng bị ám bởi vị thế địa chính trị tệ': 'geographical blessing versus geopolitical curse'.

Cuộc lật đổ Pháp đầy bạo lực nhưng mang cái tên mỹ miều như thơ haiku của phát-xít Nhật một đêm tháng 3/1945 báo hiệu thời kỳ tàn khốc về sau này.

Điều không may nhất là Việt Nam trong thời điểm đó chỉ được các đại cường coi là 'vị́ trí phụ': hoặc chiến trường để giành ngôi vị tại Trung Quốc, vùng Thái Bình Dương, hoặc căn cứ hậu cần để chuyển quân.

Tệ hơn cả, các đế quốc đến rồi đi.

Mỗi kẻ đến với một tính toán riêng và phần nhiều coi Việt Nam là lá bài để mặc cả cho các chuyện khác của họ:

Anh Quốc nhận ủy nhiệm của Đồng minh vào phía Nam Đông Dương tháng 9/1945 giải giáp quân đội Nhật rồi đi.

Tới Sài Gòn - Gia Định, tướng Douglas Gracey tranh thủ giúp Pháp quay lại tái chiếm Việt Nam, chỉ để Anh có đồng minh hậu chiến khả dĩ một chút tại châu Âu để chống lại Liên Xô trong thế cờ mới định hình.

Pháp thực chất là nước bại trận, còn đồng lõa với phát-xít Đức mà chỉ nhờ lực lượng kháng chiến của Tướng de Gaulle mà gỡ lại chút vai vế.

Pháp cũng 'cố đấm ăn xôi' để giành lại Đông Dương năm 1945-46 chỉ vì đã quá kém cỏi ở châu Âu và cần vớt vát uy thế đế quốc đã tàn.

Nhật Bản chỉ coi Đông Dương và Việt Nam là chiến trường nhỏ cho các 'war theatre' lớn hơn.

Việc Nhật Bản có giúp một số nhóm dân tộc chủ nghĩa bản địa người Việt và Khmer ở Nam Bộ cũng mang tính chiến thuật, thậm chí lợi dụng họ rồi bỏ rơi.

Trung Hoa Dân Quốc tham nhũng và rối bời vì nội chiến phải đến 1943 mới có tuyên bố chung chung ủng hộ độc lập tương lai cho Triều Tiên, Việt Nam, Philippines.

Trước đó, họ muốn giành lại ngôi vị 'Thiên Triều' của Trung Hoa tại Việt Nam nếu một ngày đẩy được người Pháp đi.

Tệ hơn, trong các năm 1930-40, không ít quan chức chính quyền Tưởng bắt các nhà hoạt động Việt Nam chạy sang lánh nạn rồi trao trả cho Pháp để kiếm tiền.

'Hoa quân nhập Việt' năm 1945 với hoạt động của các tướng phía Nam như Trương Phát Khuê chấm dứt vì Tưởng Giới Thạch không có đường lối gì cụ thể.

Hoa Kỳ đúng là có cử nhóm OSS giúp Hồ Chí Minh ở thượng du Bắc Việt nhưng cũng cho OSS giúp Pháp nhảy dù xuống Cao nguyên miền Trung để chống Nhật.

Tổng thống Roosevelt ra lệnh cấm vận dầu lửa sau khi Nhật đưa quân vào Đông Dương, gián tiếp khiến Nhật quyết định đánh thẳng vào Mỹ ở Trân Châu Cảng.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Hình minh họa phi cơ vận tải A400M: Một phi đoàn trong chiến dịch Pegase do tướng Patrick Charaix chỉ huy đến châu Á tháng 8/2018 đã đưa Không quân Pháp thăm lại Việt Nam lần đầu từ 1954

Ngay cả Liên Xô thời Stalin sau năm 1945 cũng ưu tiên châu Âu mà không màng gì đến Việt Nam, thậm chí không công nhận chính quyền Hồ Chí Minh năm 1945.

Cũng vì không phải là ưu tiên của nước lớn nào, nên công cuộc độc lập chỉ thành công về biểu tượng và Việt Nam rơi vào cuộc chiến Đông Dương lần 1 với Pháp.

Sau cuộc chiến thứ nhì, rồi sang thời Hậu Chiến tranh Lạnh, nay vị thế Việt Nam đã hoàn toàn khác.

Nhưng vì Biển Đông và Trung Quốc trỗi dậy, các nước lớn lại tìm đến Việt Nam, vẫn mấy gương mặt quen thuộc xưa: Nhật Bản, Hoa Kỳ, Anh Quốc và cả Pháp.

Bàn cờ địa chính trị chắc chắn không còn như xưa nhưng sẽ xoay theo hướng nào đây?

Xem thêm về quan hệ Pháp - Việt:

Pháp-Việt ký nhiều hợp đồng hàng tỷ USD

Tờ L'Humanite: 'Pháp muốn mở cửa cho VN'

Video liên quan

Chủ Đề