Xây dựng nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân có mối quan hệ biến chúng như thế nào

Thực tiễn của 20 năm đổi mới cho thấy, không thể có thắng lợi to lớn của công cuộc đổi mới đất nước nếu không kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy quan hệ chặt chẽ với nhau, trong mối quan hệ biện chứng. Bảo vệ độc lập dân tộc, an ninh quốc gia gắn liền với bảo vệ con đường xã hội chủ nghĩa, chế độ xã hội chủ nghĩa và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bảo vệ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải kiên định mục tiêu, con đường đã chọn; kiên định chủ nghĩa Marxism - Leninism và tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðó là quan điểm, là vấn đề có tính nguyên tắc quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Mặt khác, chúng ta kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển lý luận của chủ nghĩa Marxism - Leninism. Bảo vệ Ðảng và tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân. Ðó là những thành công nổi bật của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trong sự nghiệp đổi mới. Xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh có ý nghĩa quyết định giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và môi trường hòa bình của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới giành thắng lợi.

Khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Ðông Âu và Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng tình hình đó để phá hoại cách mạng và công cuộc đổi mới của nhân dân ta, Ðảng ta đã nắm bắt kịp thời và phân tích đúng đắn tình hình đất nước và thế giới, đặc biệt là những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực để có những chủ trương, quyết sách thích hợp. Ðảng đã đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa VI), tháng 3-1989, nhằm bảo đảm cho công cuộc đổi mới phát triển đúng định hướng, vượt qua những khó khăn, thách thức mới, làm thất bại âm mưu, hành động chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động phòng ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, trong đó có nguy cơ "diễn biến hòa bình", đó là một thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo quốc phòng của Ðảng ta trong những năm đổi mới vừa qua. Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khóa VI), tháng 3 năm 1990, Ðảng đã nhận định: "Các thế lực đế quốc và phản động đang triệt để khai thác những khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa để tăng cường can thiệp, phá hoại, thực hiện diễn biến hòa bình nhằm xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa", "cuộc đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa xã hội đang diễn ra quyết liệt".

Từ nhận định, đánh giá một cách khoa học, đúng đắn tình hình trong nước và thế giới, Ðảng ta đã chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh.

Tại Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Ðảng ta đã khẳng định chủ trương: "Củng cố nền quốc phòng toàn dân và thế trận chiến tranh nhân dân nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động phá hoại và xâm lược của kẻ thù là nhiệm vụ quan trọng của toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị. Ðẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố trong thế trận quốc phòng toàn dân, có khả năng ngăn chặn, đập tan các âm mưu và hành động phản cách mạng tại địa phương và tích cực chiến đấu bảo vệ địa phương trong mọi tình huống. Xây dựng các công trình quốc phòng trọng điểm cần thiết. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế trong quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế của cả nước và trên từng địa phương; xây dựng, củng cố vững chắc các khu căn cứ hậu phương chiến lược"(1). "Giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch và các loại tội phạm khác; giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới là một nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"(2). Phát triển quan điểm chỉ đạo về quốc phòng, an ninh; Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Ðảng đã nêu rõ: "Trong khi đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã không một chút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn luôn coi trọng quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ chiến lược gắn bó chặt chẽ"(3).

Nắm vững quan điểm chỉ đạo của Ðảng, lực lượng vũ trang, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành phối hợp triển khai thực hiện có kết quả nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, góp phần trực tiếp vào thắng lợi của công cuộc đổi mới trong 20 năm qua. Sự nghiệp quốc phòng đã có những đổi mới và đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu nổi bật nhất là Ðảng ta đã đề ra và không ngừng bổ sung, phát triển đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân độc lập tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường, dựa vào sức mình là chính; khơi dậy và phát huy được tiềm năng và sức mạnh của toàn dân tộc, đưa nước ta từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, vững bước đi lên; luôn vững vàng, tỉnh táo, nhạy bén trước biến động của tình hình; luôn nắm vững quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước; vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marxism - Leninism, tư tưởng Hồ Chí Minh về quốc phòng, về chiến tranh nhân dân vào điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta; phân tích đánh giá đúng tình hình, kịp thời đổi mới tư duy về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; xác lập đúng đắn các quan hệ, đường lối, chủ trương, chính sách và đề ra nhiều giải pháp phù hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trong điều kiện mới. Do vậy, đã từng bước huy động được sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, các địa phương, của cả hệ thống chính trị và toàn dân vào nhiệm vụ xây dựng tiềm lực quốc phòng; chỉ đạo có hiệu quả kết hợp quốc phòng với an ninh, quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại.

Quán triệt đường lối đổi mới của Ðảng, trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong 20 năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu cơ bản sau đây:

Một là, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình và an ninh cho sự phát triển đất nước; làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần quan trọng vào quá trình đổi mới đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Ðây là thành tựu to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong hai mươi năm đổi mới. Tại Ðại hội IX, Ðảng ta đã đánh giá thành tựu toàn diện của nhân dân ta trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc: "Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nhất là trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo được phát huy"(4). Quốc phòng và an ninh được tăng cường đã góp phần làm cho sức mạnh mọi mặt của đất nước tăng hơn nhiều so với hai mươi năm trước. Tháng 7-2003, tại Hội nghị Trung ương 8, khóa IX, Ðảng ta đã khẳng định thành tựu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Ðó là, "giữ vững độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, vai trò lãnh đạo của Ðảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh phát triển kinh tế; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân vào công cuộc đổi mới; tạo lập được môi trường quốc tế thuận lợi, mở rộng quan hệ đối ngoại; tăng cường thế và lực của đất nước"(5).

Hai là, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường, tăng thêm khả năng ngăn chặn và loại trừ nguy cơ chiến tranh và khả năng đối phó thắng lợi các tình huống chiến tranh và các tình huống xâm phạm an ninh quốc gia, nếu xảy ra.

Thực tiễn hai mươi năm qua chứng tỏ rằng, các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam, thủ tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Song, sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh của đất nước đã được tăng cường một cách toàn diện, có khả năng đối phó thắng lợi với mọi tình huống chiến tranh, nếu xảy ra, cả chiến tranh thông thường, cũng như chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao với mọi quy mô.

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc được tăng cường không chỉ bằng sức mạnh quân sự đơn thuần, sức mạnh của riêng các lực lượng vũ trang, của Quân đội nhân dân, mà còn bởi sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân gắn với sức mạnh của nền an ninh nhân dân, được tạo điều kiện và hợp lực bởi sức mạnh của nền kinh tế, văn hóa, xã hội, của tất cả các lực lượng và tiềm lực trên tất cả các lĩnh vực.

Ba là, nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc của toàn xã hội và sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.

Ðây là thành tựu cơ bản phản ánh sâu sắc tính toàn dân, toàn diện và sức mạnh tổng hợp của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong hai mươi năm đổi mới đất nước.

Tính chất toàn dân, toàn diện biểu hiện cụ thể và sâu sắc ở chỗ, mọi người dân, dù hoạt động trong lĩnh vực, trên mọi địa bàn đều có ý thức rõ rằng, hoạt động của mình và của ngành mình cũng là góp phần bảo vệ Tổ quốc; từ đó đề cao trách nhiệm công dân trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh ở cơ sở, địa bàn hoạt động. Ðây là cơ sở quan trọng làm cho sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân trong sự gắn bó với nền an ninh nhân dân cả về thế trận và lực lượng được củng cố, tăng cường, nhất là trên các hướng, các địa bàn chiến lược trọng yếu, nơi biên giới, biển đảo. Nhờ đó, đã phát triển mạnh mẽ các phong trào toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; toàn dân giữ gìn an ninh, trật tự an toàn xã hội.

Bốn là, hình thành thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới. Thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc được triển khai rộng khắp, chặt chẽ và liên hoàn; thế trận lòng dân được củng cố.

Thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được triển khai rộng rãi, chặt chẽ và thống nhất, tạo ra sự vững chắc cho thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Củng cố "thế trận lòng dân" vững chắc, đây là nội dung cơ bản, là vấn đề "mấu chốt" của thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân bảo vệ Tổ quốc của nước ta. Ðiều đó biểu hiện trước hết ở lòng tin ngày càng cao và vững chắc của mọi tầng lớp nhân dân đối với chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với Ðảng và Nhà nước, đối với sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam.

Mối quan hệ quân dân được tăng cường trên cơ sở sự nhất trí về chính trị - tinh thần, sự thống nhất về mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự vững chắc của "thế trận lòng dân" là bức "thành đồng" chắc chắn, bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới trong suốt hai mươi năm qua.

Năm là, lực lượng vũ trang mà nòng cốt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, phát huy được vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sức mạnh của lực lượng vũ trang biểu hiện cụ thể ở việc hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong từng giai đoạn của cách mạng. Trong quá trình đổi mới, sức mạnh tổng hợp của các lực lượng vũ trang đã được nâng lên một bước, đã kịp thời ngăn chặn, dập tắt các vụ gây rối, bạo loạn chính trị, vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động trong và ngoài nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Vai trò của lực lượng vũ trang được biểu hiện không chỉ trong việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng; mà còn trực tiếp tham gia có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước.

Thành tựu về giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng gắn liền với việc Ðảng và Nhà nước chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu chiến đấu trong mọi tình huống, tuyệt đối trung thành với Ðảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhân dân. Trong xây dựng Quân đội nhân dân đã chú trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội, trước hết là chất lượng về mặt chính trị, coi trọng xây dựng về mặt chính trị, tư tưởng  và  tổ chức;  trong đó đặc biệt chú trọng nâng cao vai trò lãnh đạo của Ðảng, chăm lo công tác Ðảng, công tác chính trị trong Quân đội; chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, nâng cao vai trò và hiệu quả lãnh đạo của Ðảng ủy quân sự Trung ương; bảo đảm Quân đội vững vàng trước tình hình phức tạp ở trong nước và trên thế giới, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao. Cùng với xây dựng quân thường trực vững mạnh, đã chú ý xây dựng lực lượng dự bị động viên và nâng cao chất lượng của dân quân tự vệ. Ðảng và Nhà nước đã quan tâm bảo đảm đời sống chính sách đối với bộ đội và hậu phương Quân đội. Chất lượng và sức chiến đấu của Quân đội, của lực lượng vũ trang nói chung được nâng lên. Các nhu cầu củng cố quốc phòng được đáp ứng tốt hơn.

Các lực lượng vũ trang nhân dân làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia. Trong bối cảnh tình hình có nhiều diễn biến mau lẹ, phức tạp, lực lượng vũ trang đã luôn kiên định mục tiêu chiến đấu, xác định rõ đối tượng, thường xuyên cảnh giác, theo dõi nắm chắc diễn biến trên các hướng chiến lược, các khu vực trọng điểm, tập trung triển khai tốt nhiệm vụ và kế hoạch phòng, chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, duy trì thường xuyên chế độ thường trực sẵn sàng chiến đấu, chủ động phối hợp các lực lượng và nhân dân kịp thời đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại nhiều âm mưu và hoạt động chống đối, phá hoại bằng các biện pháp vũ trang và phi vũ trang, cả trong điều kiện thường xuyên cũng như trong các thời điểm, các đợt tập trung lực lượng đông của địch. Kịp thời nghiên cứu, đề xuất với Ðảng và Nhà nước những chủ trương, biện pháp chiến lược nhằm chủ động ngăn chặn và ứng phó thắng lợi với các tình huống phức tạp xảy ra, không để bị bất ngờ về chiến lược. Các lực lượng vũ trang đã quản lý chặt chẽ các tuyến biên giới, vùng biển đảo, vùng trời và giữ vững an ninh nội địa, đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi các hoạt động vi phạm quy chế biên giới, xâm phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia, tham gia xử lý đúng đắn các vụ việc về an ninh ở cơ sở, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ an ninh tạo nên thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân.

Các lực lượng vũ trang, đặc biệt là các đơn vị trong Quân đội đã tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, phòng, chống tệ nạn xã hội trên các địa bàn nhất là ở các vùng sâu, biên giới hải đảo, vùng dân tộc ít người; thực hiện tốt chương trình quân - dân y kết hợp; giữ vai trò nòng cốt trong việc phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Những khu kinh tế - quốc phòng đứng chân trên các địa bàn chiến lược đã góp phần tạo mô hình phát triển những điểm dân cư - xã hội dọc biên giới, vùng sâu, vùng xa làm nòng cốt cùng toàn dân bảo vệ biên giới và khẳng định chủ quyền vùng biển, góp phần xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, giải quyết chính sách, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội và nhân dân, đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân.

Những thành tích và tiến bộ đạt được trong 20 năm đổi mới nhất là trong những năm gần đây đã khẳng định, trong giai đoạn mới Quân đội ta vẫn tiếp tục giữ vững bản chất cách mạng, phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", luôn đi đầu giải quyết có hiệu quả nhiều nhiệm vụ khó khăn phức tạp, xứng đáng với sự tin cậy của Ðảng, Nhà nước và nhân dân. Trận địa chính trị - tư tưởng được củng cố và ngày càng vững chắc, tích cực đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", chống những quan điểm sai trái và các luận điểm xuyên tạc phá hoại của địch; Quân đội ta luôn tỏ rõ lòng trung thành vô hạn với Ðảng, với Tổ quốc, với nhân dân.

Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân còn bộc lộ những hạn chế, khuyết điểm cần được khẩn trương khắc phục. Ðó là, chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang còn có mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân tuy được củng cố nhưng chưa toàn diện và có mặt chưa thật vững chắc. Nhận thức về một số nội dung quốc phòng, an ninh, đối ngoại chưa thống nhất cao. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa thấy hết âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, còn có những biểu hiện mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác...

Những thành quả của 20 năm đổi mới nói chung và thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng đã làm cho thế và lực nước ta lớn mạnh lên nhiều. Tuy nhiên, đất nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn. Chúng ta phải hết sức đề cao cảnh giác cách mạng, bởi lẽ, các thế lực đó không ngừng và luôn tìm trăm phương ngàn kế từ trắng trợn ngạo mạn đến thâm độc, xảo quyệt, tinh vi để phá hoại sự nghiệp cách mạng, công cuộc đổi mới của Ðảng và nhân dân ta. Mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác là một tội ác đối với cách mạng. Cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, tình hình tham nhũng và sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống gắn liền với tệ quan liêu, lãng phí rất nghiêm trọng của một bộ phận không ít cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối,  chủ trương, chính sách của Ðảng.

Trước âm mưu, thủ đoạn mới của các thế lực thù địch và trước những nguy cơ mới của đất nước, đòi hỏi Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quan tâm hơn nữa việc củng cố quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh kết hợp chặt chẽ với nền an ninh nhân dân, xây dựng thành thế trận vững chắc. Hai thế trận ấy kết hợp chặt chẽ mới bảo đảm ổn định và hòa bình lâu dài cho đất nước.

Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Tiềm lực quốc phòng dựa trên nền tảng của tiềm lực chính trị - tinh thần, tiềm lực quân sự, tiềm lực kinh tế, tiềm lực khoa học kỹ thuật và công nghệ mà tiềm lực quân sự là tiêu biểu và là kết quả tổng hợp của các tiềm lực đó; được xây dựng, tổ chức quản lý vì lợi ích phòng thủ quốc gia. Do đó, phải xây dựng đất nước vững mạnh về mọi mặt mới có cơ sở để tạo nên tiềm lực quốc phòng. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn hạn chế, trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ còn thấp so với trình độ tiên tiến của thế giới; và, cho dù trong thời gian tới, tiềm lực mọi mặt được tăng cường, thì trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, chúng ta vẫn phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh. Do đó, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vẫn phải là sức mạnh tổng hợp của quốc gia, của dân tộc lấy sức mạnh quân sự làm nòng cốt. Sức mạnh đó được thể hiện ở tính ưu việt và sự vững bền của chế độ, khả năng đứng vững và phát triển của nền kinh tế, của xã hội trước mọi thử thách và khả năng ứng phó có hiệu quả với mọi tình huống phức tạp có thể xảy ra trong điều kiện mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, hợp tác và cạnh tranh với các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Cơ sở của sức mạnh quốc phòng ngày nay trước hết và quan trọng nhất là sức mạnh chính trị - tinh thần, là lòng dân, là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là mối quan hệ máu thịt Ðảng - dân, quân - dân, là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và sự đoàn kết thống nhất của Ðảng. Bởi thế, phải thường xuyên chăm lo đến lợi ích vật chất và tinh thần của quần chúng nhân dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội; ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực trong bộ máy Ðảng và Nhà nước; tăng cường công tác tư tưởng, giáo dục chính trị, nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng nhận rõ âm mưu, bản chất phản động của các thế lực thù địch; kịp thời đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, những biểu hiện dao động, suy thoái lòng tin vào sự nghiệp đổi mới, vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào chủ nghĩa xã hội, mơ hồ về bản chất của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở đó mà khôi phục và củng cố lòng tin của nhân dân với chế độ, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng, tăng cường sự gắn bó máu thịt giữa Ðảng và quần chúng, giữa quân và dân, sự đoàn kết giữa các dân tộc và các tầng lớp nhân dân.

Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên phạm vi cả nước cũng như trên từng địa phương. Cần đặc biệt chú trọng các vùng biên giới đất liền, ven biển, hải đảo, vùng rừng núi và các đô thị lớn, các địa bàn chiến lược trọng yếu. Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, trước hết phải xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc. Sao cho sự nghiệp quốc phòng phải thật sự vì dân, do dân thực hiện. Ðiều quan trọng nhất trong việc giữ nước là làm cho "trong ấm, ngoài êm"; lấy việc yên dân, giữ vững chế độ, xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm kế sách giữ nước bền lâu. Phải coi trọng xây dựng và giữ vững bên trong, đó là yếu tố quyết định trong sự nghiệp giữ nước. Ðảng trong sạch, vững mạnh, dân yên, quân mạnh, thế Ðảng, lòng dân vững vàng trong mọi tình huống thì không một thế lực thù địch nào có thể phá hoại được sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Ngày nay, quốc phòng và an ninh còn phải kết hợp chặt chẽ với xây dựng, phát triển kinh tế và đấu tranh ngoại giao. Ða phương, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, giữ vững và tăng cường quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển kinh tế. Trong xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, phải xây dựng thế trận phòng thủ của cả nước, khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), huyện (quận, thị) thành thế trận, khu vực phòng thủ vững chắc, liên hoàn đến làng, xã chiến đấu, bảo đảm phát huy sức mạnh tại chỗ, tự lực bảo vệ địa phương mình và góp phần bảo vệ quân khu và cả nước. Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh cả về quốc phòng và an ninh. Xây dựng Quân đội nhân dân, xây dựng ba thứ quân vững mạnh làm nòng cốt. Khu vực phòng thủ vững chắc và binh đoàn chủ lực cơ động mạnh là nền tảng của quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Phải coi trọng công tác phòng thủ dân sự, có cơ chế lãnh đạo, điều hành tập trung thống nhất. Coi trọng công tác giáo dục quốc phòng cho toàn dân, đặc biệt cho cán bộ chủ chốt của các bộ, ngành, cho cán bộ các cấp của Ðảng và Nhà nước, cho học sinh, sinh viên và thế hệ trẻ nói chung. Ðộng viên và tổ chức cho toàn dân tham gia củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang.

Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân phải quán triệt tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; phải chuẩn bị đối phó thắng lợi với tất cả các tình huống có thể xảy ra; nhưng tập trung chống "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ là yêu cầu hàng đầu. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân còn phải góp phần giữ vững và tạo ra môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phải phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường; đồng thời cũng phải tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực Ðông-Nam Á và các nước láng giềng để xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị; xây dựng toàn diện trên các mặt: quân sự, chính trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội... Nhưng phải xây dựng lực lượng vũ trang có chất lượng chính trị và sức mạnh tổng hợp cao, xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm nòng cốt. Xây dựng cân đối cả ba thứ quân của lực lượng vũ trang nhân dân, giải quyết đúng đắn các vấn đề về tổ chức, biên chế, trang bị, huấn luyện, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy; nghiên cứu khoa học nghệ thuật quân sự của Quân đội nhân dân, của cả ba thứ quân phù hợp điều kiện thực tế của đất nước và hoàn cảnh thời bình; đồng thời phải sẵn sàng và đủ sức bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống, kể cả khi có chiến tranh xâm lược quy mô lớn có sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch.

Nền quốc phòng toàn dân vững mạnh đòi hỏi phải có một nền công nghiệp quốc phòng mạnh. Phải đặc biệt coi trọng phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng đáp ứng nhu cầu của công cuộc bảo vệ Tổ quốc, giữ vững hòa bình và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao với mọi quy mô của các thế lực thù địch. Trong phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng phải quán triệt các quan điểm cơ bản sau đây:

Quan điểm quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới phải được cụ thể hóa thành mục tiêu, nhiệm vụ và các hướng ưu tiên trong nghiên cứu, sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các lực lượng chủ lực cũng như cho toàn dân tham gia đánh giặc. Ðặc biệt, trong thời kỳ mới, khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng phải góp phần phát triển các phương tiện tác chiến của chiến tranh nhân dân chống lại vũ khí công nghệ cao của địch. Phải quán triệt quan điểm phát huy sức mạnh tổng hợp: sức mạnh của tiềm lực khoa học kỹ thuật  - công nghệ quân sự và công nghiệp quân sự và công nghiệp quốc phòng phải là sức mạnh tổng hợp; kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc, dựa trên sự đúng đắn và chính nghĩa của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; của đường lối quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân; của chiến lược và nghệ thuật quân sự Việt Nam dựa trên nền tảng nội lực của toàn bộ tiềm lực kinh tế - xã hội, công nghiệp và khoa học công nghệ của đất nước. Xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và nền kinh tế quốc dân. Xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng phải được đặt trong tổng thể quy hoạch chung của nền công nghiệp và khoa học công nghệ quốc gia và dựa trên cơ sở huy động các nguồn tiềm năng sẵn có trong nền kinh tế quốc dân. Ðồng thời, bản thân nền khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng cũng phải tích cực, chủ động tham gia phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và phát triển tiềm lực khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự và công nghiệp quốc phòng phải nêu cao ý thức tự lực, tự cường, dựa vào nội lực là chủ yếu, đồng thời, tranh thủ tối đa những thời cơ thuận lợi để chủ động hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt là quan hệ hợp tác với các đối tác chiến lược về khoa học kỹ thuật - công nghệ quân sự.

Nền quốc phòng toàn dân phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Ðảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước. Trong quá trình đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân phải tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Ðảng và tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng là vấn đề có tính nguyên tắc. Thường xuyên chăm lo xây dựng Ðảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng cho phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung, sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh nói riêng. Không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Ðảng, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trên lĩnh vực quốc phòng. Củng cố, nâng cao chất lượng của các cơ quan và cán bộ chuyên trách công tác quốc phòng giúp các cấp, các ngành triển khai nhiệm vụ quốc phòng theo đúng chức năng. Kịp thời thể chế, pháp luật hóa đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Hoàn thiện luật pháp về bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường quản lý nhà nước và quốc phòng trên phạm vi cả nước và ở từng địa phương, cơ sở, đưa nhiệm vụ đó vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Các bộ, ngành, các địa phương chấp hành tốt nhiệm vụ quốc phòng của ngành mình, cấp mình, kết hợp chặt chẽ, hài hòa xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh ngay trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng chung trong cả nước, trên từng lĩnh vực, từng địa phương, từng công trình và tổ chức thực hiện có hiệu quả.

Nền quốc phòng toàn dân là nền quốc phòng của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mang tính chất toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự cường và ngày càng hiện đại dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhận thức về nền quốc phòng toàn dân như trên thể hiện mối quan hệ đồng bộ giữa xây dựng, củng cố, bố trí lực lượng quốc phòng với tăng cường công tác quản lý nhà nước về quốc phòng của các cấp và thường xuyên duy trì, điều hành các hoạt động đấu tranh quốc phòng. Sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh tổng hợp của quốc gia; sức mạnh tổng hợp quốc gia để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa chính là sức mạnh tổng hợp của quốc phòng - an ninh. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh làm nòng cốt cho nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân không phải chỉ để chống chiến tranh xâm lược, mà trước hết là để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi mọi nguy cơ dẫn đến chiến tranh; đồng thời đối phó thắng lợi các tình huống khác. Như vậy, quan niệm về nền quốc phòng toàn dân ngày càng toàn diện hơn. Và, chỉ trên cơ sở giải quyết đồng bộ các mối quan hệ đó, chúng ta mới có nền quốc phòng toàn dân vững chắc.

----------

(1) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội Ðảng thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.291.

(2) Sách đã dẫn, tr.292-293.

(3) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.39.

(4) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, sách đã dẫn tr.70-71.

(5) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.30-31.