Bài tập xác định quan hệ tranh chấp đất đai

Các căn cứ để chứng minh quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án trên? Căn cứ xác định tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên?

Ông Nguyễn Văn A [Ông A] cư trú tại huyện X tỉnh TB và ông Nguyễn Hồng B [ông B] cư trú tại huyện Y tỉnh TB có quan hệ mua bán vật liệu xây dựng với nhau từ nhiều năm nay. Ngày 05/08/07 ông B dẫn bạn mình là ông Phan Đình K [ông K] cư trú tại thành phố NĐ tỉnh N đến mua vật liệu tại cửa hàng của ông A với số tiền là 200 triệu đồng. Ông K đã trả 150 triệu đồng còn nợ lại số tiền là 50 triệu đồng. Do ông K không có khả năng thanh toán nợ cho ông A và ông B còn nợ ông K số tiền là 100 triệu đồng nên ông K đã thỏa thuận với ông A và ông B với nội dung ông B sẽ tiếp tục thay ông K thanh toán cho ông B số tiền nợ 50 triệu đó. Nay ông A khởi kiện ra tòa buộc ông B phải thanh toán số tiền trên.

a. Có quan điểm cho rằng quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là quan hệ pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản. Anh [chị] hãy dựng lập luận để bác bỏ quan điểm trên.

b. Anh [chị] hãy xác định tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.

1. Các căn cứ để chứng minh quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án trên?

–   Thứ nhất, căn cứ theo quy định tại Điều 428 của “Bộ luật dân sự 2015” về Hợp đồng  mua bán tài sản thì: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Đối chiếu với quy định trên nhận thấy rằng:

+ Trong vụ án trên, quan hệ pháp luật giữa ông A và ông K là quan hệ mua bán tài sản  [  Ông  A  có  nghĩa  vụ  chuyển  giao  vật  liệu  xây  dựng  cho  ông  K  và  có quyền nhận 200 triệu đồng tiền của K cùng với đó thì ông K có quyền nhận vật liệu xây dựng từ ông A và có nghĩa vụ hoàn trả số tiền 200 triệu ông A]. 

+ Tuy nhiên, quan hệ pháp luật xảy ra tranh chấp [giữa ông A và ông B] lại không thể hiện đầy đủ các yếu tố của quan hệ mua bán tài sản vì: Trong vụ án này giữa ông A và ông B không xuất hiện việc ông A chuyển giao tài sản [vật liệu xây dựng] cho ông B và nhận tiền của ông B đồng thời với việc việc ông B quyền nhận tài sản [vật liệu xây dựng] từ ông A và có nghĩa vụ thanh toán tiền cho ông A mà chỉ xuất hiện việc ông B có nghĩa vụ thanh toán cho ông A số tiền 50 triệu đồng cho ông A.

–  Thứ hai, căn cứ Điều 315 “Bộ luật dân sự 2015” về Chuyển giao nghĩa vụ dân sự  thì:  “  1.  Bên  có  nghĩa  vụ  có  thể  chuyển  giao  nghĩa  vụ  dân  sự  cho  người  thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân  của  bên  có  nghĩa  vụ  hoặc  pháp  luật  có  quy  định  không  được  chuyển  giao nghĩa vụ.

– Thứ ba Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.

>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568

Xem thêm: Phân loại các loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng

Trong vụ án trên thấy rằng: Việc ông A khởi kiện ông B ra tòa buộc ông B phải thanh toán số tiền 50 triệu đồng là xuất phát từ sự thỏa thuận của ông K với ông A và ông B với nội dung ông B sẽ tiếp tục thực hiện việc thanh toán số tiền 50 triệu đồng mà ông K nợ ông A. Bằng việc thỏa thuận này ông B đã trở thành người thế nghĩa vụ và có nghĩa vụ thực hiện thanh toán số tiền 50 triệu đồng cho ông A trong mối quan hệ hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ.

→ Như vậy, từ hai căn cứ trên đi đến kết luận quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án trên không phải là quan hệ pháp luật về hợp đồng mua bán tài sản.

2. Căn cứ xác định tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên? 

– Tòa án có thẩm quyền giải quyết hay không? 

Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 25 Bộ luật Tố tụng dân sự 2005 về Những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có bao  gồm: “ Tranh chấp về hợp đồng dân sự”. Như vậy, tranh chấp giữa ông A và ông B về việc  thanh toán số tiền 50 triệu đồng theo hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

– Cấp Tòa án có thẩm quyền?

Căn cứ theo Điểm a khoản 1 Điều 33 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì tòa án nhân dân cấp huyện thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm “Tranh chấp dân sự, hôn  nhân  và  gia đình quy định tại Điều 25  và Điều 27của bộ  luật này”  . Như vậy, vì đây là tranh chấp về hợp đồng dân sự giữa ông A và ông B [ cụ thể là về việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán 50 triệu đồng theo hợp đồng chuyển giao nghĩa vụ] thuộc khoản 3 Điều 25 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm.

– Thẩm quyền theo lãnh thổ?

Căn  cứ  theo  khoản  1  Điều  35  Bộ  luật  Tố  tụng  dân  sự  2005  thì  thẩm  quyền  giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau: “a]Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bịđơnlà  cơ  quan,  tổ  chức  có  thẩm  quyền  giải  quyết  theo  thủ  tục  sơ  thẩm  những  tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này.

Xem thêm: Thẩm quyền xét xử của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

b] Các đương sự có quyền  tự thoả  thuận  với nhau bằng văn  bản yêu cầu  Toà  án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về  dân  sự,  hôn  nhân  và  gia đình,  kinh doanh,  thương  mại,  lao động  quy  định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này”.

Tóm lại: Từ các căn cứ trên đưa ra kết luận sau:

+ Nếu  ông  A  và ông  B không có thỏa thuận  về  nơi giải  quyết tranh chấp  Tòa án nhân dân huyện Y tỉnh TB nơi cư trú của ông B [bị đơn] là Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết.

+ Nếu ông A và ông B có thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú của ông A [nguyên đơn] giải quyết tranh chấp này thì Tòa án nhân dân huyện X tỉnh TB là Tòa án sơ thẩm có thẩm quyền giải quyết vụ án trên.

ĐỀ TÀI: “Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự – Lý luận và thực tiễn”.

Định dạng: File PDF || File Word 2016. Độ dài: 38 trang A4. Tải về

Xem thêm bài viết:

  • Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
  • Tiểu luận: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hành chính.

Ảnh: Xác định đúng quan hệ pháp luật giúp giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, chính xác

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bộ luật tố tụng dân sự quy định, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ, việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vị đơn khởi kiện đơn yêu cầu đó. Căn cứ việc đương sự yêu cầu giải quyết vấn đề gì để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Việc xác định đúng, đầy đủ quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định vụ việc có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; các tài liệu chứng cứ cần thu thập; xác định đương sự của vụ án; xác định được căn cứ pháp luật cần áp dụng để giải quyết. Trên thực tế quan hệ pháp luật đa dạng, phức tạp nên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp dựa vào yêu cầu của đương sự  trong một số trường hợp không hề dễ dàng, xảy ra nhiều khó khăn vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng.

Từ ngày 1/7/2017, các bản án, quyết định của TAND các cấp theo quy định tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC sẽ được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án. Để thực hiện có hiệu quả quy định trên, ngày 25 tháng 5 năm 2017, Toà án nhân dân tối cao đã tổ chức hội nghị tập huấn viết bản án cho toàn ngành. Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc ban hành 93 biểu mẫu kèm theo. Hoạt động này của Toà án là nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các vụ việc giải quyết trong hệ thống ngành, trong đó có nội dung xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án.

Thực tiễn, trong thời gian qua, tác giả được tiếp cận những vụ án của Toà án địa phương, một số Toà án trong hệ thống ngành thấy những vướng mắc, bất cập, sai sót trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Với nhận thức là cần làm rõ một số vấn đề về lý luận, đánh giá việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trên thực tiễn từ đó chỉ ra những vướng mắc, khó khăn và giải pháp khắc phục để rút kinh nghiệm cho bản thân và cho đồng nghiệp trong ngành.

Đó cũng là lý do tác giả chọn đề tài tiểu luận này.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài 

Có nhiều bài viết, công trình đã nghiên cứu ở cấp độ khác nhau liên quan đến “xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự lý luận và thực tiễn”. Có thể kể đến Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Vị trí, vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam” của Tòa án nhân dân tối cao [TANDTC] năm 1996; Đề án: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của ngành Tư pháp” của Bộ Tư pháp năm 1996; Đề tài khoa học cấp Bộ: “Những yêu cầu và giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân” của TANDTC năm 1999. Đây là những công trình, bài viết đề cập đến những nội dung khác nhau, ở một số khía cạnh mang tính riêng lẻ vấn đề xác định các tranh chấp phát sinh trong tố tụng dân sự, Đề tài “xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự” là quá trình phân loại các tranh chấp trong thủ tục tố tụng dân sự, trên cơ sở đó có cái nhìn tổng quan về hoạt động giải quyết vụ án dân sự tại hệ thống Tòa án, để giải quyết vụ án một cách triệt để và chính xác nhất.

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Là những qui định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật nội dung về các loại quan hệ tranh chấp và thực tiễn giải quyết trong từng vụ án cụ thể trong Toà án, đề tài còn phân loại từng các loại tranh chấp có thể phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án, từ đó có thể đưa ra những đường lối khắc phục, hạn chế những sai sót trong việc giải quyết tranh chấp.

 Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là xác định các loại tranh chấp thường gặp trong tố tụng dân sự, đồng thời nêu lên một số khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án và hướng giải quyết xử lý.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận được triển khai trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nêu những điểm bất lợi và có lợi trong việc thực hiện theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử, những tổng kết của ngành Tòa án, những số liệu thống kê về tình hình xét xử, về tổ chức cán bộ của các cơ quan chức năng, dư luận xã hội… làm cho những kiến nghị sửa đổi, bổ sung pháp luật về việc xác định và giải quyết tranh chấp trong tố tụng dân sự không những chỉ dựa trên cơ sở lý luận mà còn có cơ sở thực tiễn.

5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tiểu luận

Kết quả nghiên cứu của đề tài là những bổ sung quan trọng về cơ sở lý luận làm sáng tỏ về nội dung của việc xác định quan hệ tranh chấp, xác định vai trò ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định quan hệ tranh chấp. Về thực tiễn, giúp cho những người làm công tác xét xử có cái nhìn đúng đắn, nhận thức rõ vai trò ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự. Đây cũng là tài liệu để cho những người nghiên cứu pháp luật trong lĩnh vực có liên quan nghiên cứu tham khảo.

Quan hệ pháp luật là những quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Trong hệ thống pháp luật, mỗi ngành luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội khác nhau. Quan hệ pháp luật dân sự là một dạng quan hệ pháp luật, vì vậy, nó mang đầy đủ đặc tính của quan hệ pháp luật về bản chất xã hội, bản chất pháp lí, tính cưỡng chế nhà nước…

Do tác động của các quy phạm pháp luật lên các quan hệ xã hội nên các bên tham gia vào các quan hệ đó có các quyền và nghĩa vụ pháp lí tương ứng. Các quyền, nghĩa vụ pháp lí này được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Sự tác động của các quy phạm pháp luật vào các quan hệ xã hội không làm mất đi tính xã hội của các quan hệ đó mà làm cho các quan hệ này mang một hình thức mới “quan hệ pháp luật”. Hậu quả của nó là các quyền và nghĩa vụ của các bên được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.

Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội mang tính chất ý chí – ý chí của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật mà nội dung của chúng được xác định bằng các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội tồn tại trong xã hội đó vào thời điểm lịch sử nhất định. Ngoài ra, các quan hệ pháp luật còn mang ý chí của các chủ thể tham gia vào quan hệ đó. Ý chí của các chủ thể phải phù hợp với ý chí của Nhà nước và được thể hiện khác nhau trong từng quan hệ cụ thể, từng giai đoạn của nó [phát sinh, thực hiện hoặc chấm dứt]. Có thể chỉ thể hiện khi phát sinh, lúc thực hiện hay chấm dứt một quan hệ cụ thể, song ý chí của các chủ thể tham gia vào các quan hệ này phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thể hiện qua các quy phạm pháp luật dân sự và các nguyên tắc chung của luật dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự.

Có nhiều quan hệ pháp luật xuất hiện trong cuộc sống, trong quan hệ giữa con người với con người, các quyền, nghĩa vụ của các bên có thể phát sinh nhưng nếu các bên không có tranh chấp thì những quan hệ đó chỉ là những quan hệ xã hội. Khi có tranh chấp, các bên có thể tự điều chỉnh các quan hệ với nhau để một cách hoài hòa, thuận tiện [tự hoà giải, thương lượng ngoài tố tụng Toà án] mà không cần viện dẫn đến qui định, khuôn mẫu có sẵn do Nhà nước ấn định ban hành [pháp luật] để phân biệt bên nào đúng, bên nào sai hoặc các bên cần có một cơ chế giải quyết, phán xét. Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử, các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, phán xử nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo một trình tự thủ tục nhất định.

Từ những phân tích trên, tác giả xây dựng khái niệm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp như sau:

” Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là hoạt động nhận thức của con người trên cơ sở yêu cầu của đương sự, thông tin khác có trong một tình huống cụ thể nhằm tìm đến những qui định của pháp luật để giải quyết vấn đề được chính xác, đúng đắn”.

Theo Điều 1 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: Bộ luật tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để Tòa án nhân dân giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động và trình tự, thủ tục yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động… Do đó, khi tiếp cận đến Toà án, đầu tiên đương sự phải nêu rõ yêu cầu để Toà án giải quyết. Trên cơ sở yêu cầu của đương sự, Toà án có trách nhiệm xác định quan hệ tranh chấp ban đầu. Nếu đương sự chưa nêu rõ yêu cầu của mình thì Toà án cần phải hướng dẫn cho đương sự nêu rõ để xác định họ có được quyền khởi kiện hay không, việc khởi kiện của họ có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án hay không vvv.. Có thể nói, hoạt động xác định quan hệ pháp luật tranh chấp ban đầu đã xuất hiện ngay khi đương sự đã nộp đơn khởi kiện tại Toà án, công việc này thuộc về trách nhiệm của người được phân công xử lý đơn và trách nhiệm của người thụ lý vụ án.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không qui định cụ thể thế nào là xác định quan hệ tranh chấp mà chỉ liệt kê một số điều luật nói về tranh chấp thuộc thẩm quyền của Toà án là những tranh chấp về dân sự, về hôn nhân và gia đình, về kinh doanh thương mại, về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án tại các Điều 26, Điều 28, Điều 30 và Điều 32. Trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 188 qui định về phạm vi khởi kiện có qui định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; Nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể cùng khởi kiện một cơ quan, một tổ chức, một cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án; Cơ quan, tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 187 của Bộ luật này có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án.”

Việc giải quyết nhiều yêu cầu [nhiều quan hệ tranh chấp] trong cùng một vụ án đòi hỏi người giải quyết cần xác định được tranh hệ tranh chấp cần giải quyết là những quan hệ tranh chấp nào, từ đó xác định thẩm quyền giải quyết và điều luật áp dụng, nên xiệc xác định tranh chấp là một vấn đề quan trọng để giải quyết vụ án.

Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại quyền sử dụng đất. Đồng thời A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ công trình mà C đã xây dựng trên đất đó. Việc giải quyết các quan hệ pháp luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một điều luật tương ứng tại một trong các Điều 26, 28, 30, 32 và 34 của BLTTDS.

Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả nợ 100 triệu đồng. Đồng thời A còn khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả lại chiếc xe ôtô mà B thuê của A do đã hết thời hạn cho thuê.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc ban hành một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự, tại Mẫu số 52-DS Bản án dân sự sơ thẩm hướng dẫn “ghi quan hệ tranh chấp mà Tòa án giải quyết: Cần xác định tranh chấp mà Tòa án thụ lý giải quyết được quy định tại Điều, khoản nào của Bộ luật tố tụng dân sự, để ghi vào phần trích yếu của bản án [ví dụ: Tranh chấp mà Tòa án thụ lý giải quyết là tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự thì ghi: “tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân”].”

Trong trường hợp tại khoản tương ứng của điều luật quy định nhóm tranh chấp thì ghi cụ thể tranh chấp được giải quyết. Ví dụ: Nhóm tranh chấp là hợp đồng dân sự quy định tương ứng tại khoản 3 Điều 26 của BLTTDS thì phải ghi cụ thể tranh chấp đó là hợp đồng dân sự nào, giao dịch dân sự nào. Nếu là hợp đồng thuê nhà ở thì ghi là  “V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự thuê nhà ở”; nếu là hợp đồng vận chuyển hành khách thì ghi là “V/v tranh chấp hợp đồng dân sự vận chuyển hành khách”… Nếu là tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản thì ghi là “V/v tranh chấp về hợp đồng dân sự mua bán tài sản”; nếu là tranh chấp về mua bán nhà thì ghi là “V/v tranh chấp hợp đồng dân sự mua bán nhà ở”. Nếu là tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì cũng phải ghi rõ hợp đồng kinh doanh thương mại đó là gì. Ví dụ: nếu tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa thì ghi là “V/v tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại mua bán hàng hóa” vv… [Theo Điều 39 của Nghị quyết Hội đồng Thẩm phán số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012]

Các loại tranh chấp dân sự phổ biến như: Tranh chấp về dân sự về quyền sử dụng đất, ranh đất, hợp đồng vay tài sản, đồi tài sản …; Tranh chấp kinh doanh, thương mại về hợp đồng tín dụn, hợp đồng mua bán hàng hóa; hợp đồng dịc vụ vận chuyển…; Tranh chấp lao động như về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động; Tranh chấp hôn nhân và gia đình như ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung của vợ chồng hoặc tranh chấp về cấp dưỡng…. 

Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, việc đề cao quyền con người, quyền được. Điều 45 của Bộ luật tố tụng qui định nguyên tắc áp dụng pháp luật khi chưa có khi chưa có điều luật áp dụng. Đầu tiên Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định.  Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng. Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật và Án lệ được Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong giải quyết vụ việc dân sự khi đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố. Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó.

Như vậy, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn một cách rõ ràng hơn về nhận thức xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự. Nghĩa là, chúng ta không chỉ căn cứ vào những qui định cụ thể của pháp luật tố tụng dấn sự, căn cứ vào luật nội dung chuyên nghành mà còn phải căn cứ vào yêu cầu cụ thể của đương sự để tuỳ nghi xác định tên gọi của quan hệ đang tranh chấp mà chưa có pháp luật điều chỉnh, hoặc xét xử theo nguyên tắc cơ bản của Luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng. Bên cạnh vụ án dân sự là vụ án có tranh chấp về quyền lợi, nghĩa vụ giữa cá nhân, tổ chức với nhau còn có việc dân sự là việc không có tranh chấp về quyền và lợi ích nhưng có yêu cầu của cá nhân, tổ chức đề nghị Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý mà phát sinh quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức này. Có các việc yêu cầu về dân sự, các việc yêu cầu về hôn nhân và gia đình, các việc yêu cầu về kinh doanh và thương mại, các việc yêu cầu về lao động. Trong tiểu luận này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu xác định quan hệ pháp luật tranh chấp nghĩa là tiếp cận ở góc độ vụ án, nên không đề cập đến việc dân sự.

Việc đưa ra một khái niệm khoa học về “Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự” có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nhận dạng quan hệ pháp luật cần giải quyết cho vụ án,  xác định từng các quan hệ tranh chấp của các đương sự, cách thức lựa chọn áp dụng pháp luật nội dung và hướng giải quyết một vụ án.

Từ những phân tích trên, trên cơ sở “Khái niệm xác định quan hệ pháp luật tranh chấp” được xây dựng ở mục 1.1.1, tác giả xây dựng khái niệm “Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân” như sau:

“Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng là hoạt động nhận thức của thẩm phán được phân công thụ lý đơn, thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử khi quyết định giải quyết vụ án trên cơ sở yêu cầu của đương sự, thông tin khác có trong một tình huống cụ thể nhằm tìm đến những thoả thuận, qui định của pháp luật, tập quán, áp dụng pháp luật tương tự, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết yêu cầu của đương sự được chính xác”.

– Là hoạt động có tính bắt buộc không thể thiếu trong quá trình giải quyết vụ án

Về nguyên tắc, khi thụ lý vụ án dân sự thì thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện đã xem xét, kiểm tra nội dung đơn khởi kiện của đương sự để xác định quan hệ phát sinh tranh chấp. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định để đảm bảo tính chính xác thì nhiệm vụ của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cần phải xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng để xây dựng hồ sơ vụ án. Đây là hoạt động thường xuyên của thẩm phán, cùng với những hoạt động tố tụng khác.

– Là hoạt động phức tạp, được chi phối trong suốt quá trình giải quyết vụ án

Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án dân sự là một công việc khó khăn, phức tạp nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà các tranh chấp phát sinh ngày càng đa dạng trong khi đó Bộ luật dân sự hay các luật chuyên ngành khác chưa kịp thời điều chỉnh. Bộ luật dân sự năm 2015 đã có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung so với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, song cũng không thể quy định bao trùm hết các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, trong khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự ngay cả trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng.

Không những vậy, việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp còn có một khó khăn nữa là trong một vụ án dân sự có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp nhưng cũng có thể có nhiều mối quan hệ tranh chấp đan xen. Vì theo quy định của Điều 188 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện một hoặc nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân về một quan hệ pháp luật hoặc nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau để giải quyết trong cùng một vụ án và ngược lại. Do vậy, để xác định chính xác các quan hệ phát sinh tranh chấp thì thẩm phán phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của đương sự được thể hiện trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, và căn cứ vào quy định của pháp luật nội dung điều chỉnh các quan hệ xã hội mà đương sự tham gia có tranh chấp để từ đó xác định pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án.

– Hoạt động xác định quan hệ pháp luật tranh chấp phụ thuộc vào ý chí chủ quan của thẩm phán, Hội đồng xét xử

Trong trường hợp mà vụ việc tranh chấp chưa có điều luật áp dụng để giải quyết thì Thẩm phán phải căn cứ vào tập quán, khi các bên không có thỏa thuận, pháp luật không quy định và không có tập quán để áp dụng thì thẩm phán áp dụng tương tự pháp luật và nếu không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật thì Thẩm phán phải áp dụng án lệ và lẽ công bằng để giải quyết vụ án.

Quy định áp dụng lẽ công bằng hiện nay cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng quan điểm chung nhất thì lẽ công bằng chính là quyền tự nhiên, là một trong những quyền con người. Trong tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 cũng thừa nhận “khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng…” và trong tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc lại quan điểm này.

Ngoài ra, Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, năm 1966 có hiệu lực ngày 23/3/1976 mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 cũng khẳng định một điều: “Mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán, mọi người đều có quyền xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập không thiên vị”.

Do đó, khi áp dụng lẽ công bằng trong xét xử thì lẽ công bằng ở đây không chỉ là lương tâm hay nhận thức của người thẩm phán mà nó còn được quy định dạng theo quy định tại Điều 45 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 “Lẽ công bằng được xác định trên cơ sở lẽ phải được mọi người trong xã hội thừa nhận, phù hợp với nguyên tắc nhân đạo, không thiên vị và sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong vụ việc dân sự đó” và đây cũng chính là mục mà công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hướng tới.

Việc xác định quan hệ tranh pháp luật tranh chấp này phụ thuộc vào ý chí chủ quan nhận định của thẩm phán khi chưa có điều luật áp dụng.

Khi xác định quan hệ tranh chấp Thẩm phán không chỉ dựa vào yêu cầu của các đương sự, mà còn căn cứ vào cách vận dụng pháp luật của mỗi thẩm phán đã đúng hay chưa, dựa vào kinh nghiệm, trình độ chuyên môn của mỗi người để có thể áp dụng giống nhau về cách giải quyết nếu vụ việc đó diễn ra tương tự đối với vụ án mà chúng ta đã giải quyết.

Việc xác định quan hệ tranh chấp đúng hay sai ảnh hưởng rất lớn đến quá trình giải quyết vụ án hay là các khâu áp dụng pháp luật nội dung cho từng vụ việc xảy ra.

Căn cứ vào quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mười bốn khoản, trong đó có mười ba khoản thể hiện cho mười ba loại dạng tranh chấp. Đó là các tranh chấp:

1- Tranh chấp về quốc tịch Việt Nam giữa cá nhân với cá nhân.

2- Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản.

3- Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.

4- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 30 của Bộ luật này.

5- Tranh chấp về thừa kế tài sản.

6- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

7- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo quy định của pháp luật về cạnh tranh, trừ trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại được giải quyết trong vụ án hành chính.

8- Tranh chấp về khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước theo quy định của Luật tài nguyên nước.

9- Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai; tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo vệ và phát triển rừng.

10- Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật về báo chí.

11- Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

12- Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

13- Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

Từ các quan hệ tranh chấp đó chúng ta xác định được pháp luật nội dung để áp dụng cho từng vụ việc.

Riêng đối với khoản 14 của Điều 26 qui định: Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Các tranh chấp khác về dân sự trong khoản 14 này được hiểu sẽ còn những dạng tranh chấp khác không thuộc mười ba dạng tranh chấp đã được liệt kê, cũng có thể có những dạng tranh chấp mà chưa có pháp luật điều chỉnh mà Toà án sẽ xét xử theo lẽ công bằng chẳng hạn.

Như vậy, với cách qui định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, chúng ta không thể biết được có chính xác bao nhiêu quan hệ pháp luật có tranh chấp.

Căn cứ vào quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, có các dạng tranh chấp như: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; tranh chấp về cấp dưỡng; tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật.

So với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định rõ hơn các quan hệ tranh chấp về hôn nhân gia đình cụ thể tại Khoản 1, 6,7 và 8 Điều 28. Theo đó Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã chính thức thừa nhận và cho phép mang thai hộ với mục đích nhân đạo [cụ thể từ Điều 93 đến Điều 98] cũng đồng nghĩa có thêm loại quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và thẩm quyền giải quyết tranh chấp này thuộc về Tòa án nhân dân.

Trong điều luật này, có bảy dạng tranh chấp được qui định tại bảy khoản tương ứng, riêng đối với khoản 8 cũng là một khoản tuỳ nghi mà ở đó ngoài bảy dạng tranh chấp nêu trên thì còn có những dạng tranh chấp khác có pháp luật nội dung qui định hoặc chưa có pháp pháp luật nội dung qui định.

Trong vụ án hôn nhân và gia đình phức tạp nhất là về phân chia tài sản và xác định quan hệ tranh chấp của nó. Tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 33 luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

Theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn liên quan, việc chia tài sản chung trong vụ án hôn nhân và gia đình hiện nay được xác định theo hai dạng. Dạng thứ nhất là chia tài sản chung của vợ chồng và dạng thứ hai là chia tài sản chung của những người bị Tòa án tuyên bố “không công nhận là vợ chồng hoặc hủy hôn nhân trái pháp luật”. Khi phân chia tài sản chung của vợ chồng, Hội đồng xét xử phải căn cứ vào Điều 217, 219 của Bộ luật dân sự năm 2005 và các qui định từ Điều 59 đến Điều 61 của Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014 để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản chung hợp nhất [quyền ngang nhau]. Nhưng khi phân chia tài sản của những người bị “không công nhận là vợ, chồng hoặc hủy hôn nhân trái pháp luật” thì quyền và nghĩa vụ của các bên đối với tài sản chung được chia trên cơ sở căn cứ vào các qui định tại Điều 216 của Bộ luật dân sự năm 2005 [sở hữu chung theo phần], xác định phần, công sức đóng góp của các bên đối với khối tài sản [không ngang nhau về quyền và nghĩa vụ đối với tài sản]. Thực tiễn xét xử cho thấy, rất nhiều trường hợp khi thụ lý vụ án yêu cầu chia tài sản chung sau khi các bên đã ly hôn, không những Tòa án cấp sơ thẩm xác định không đúng quan hệ tranh chấp và loại án đã giải quyết [như đã phân tích ở phần trên], mà còn phân tích không rõ cơ sở pháp lý hình thành khối tài sản chung. Cụ thể, các bản án ban hành phần lớn không xác định rõ các bên trước đây được Tòa án xử cho ly hôn hay là bị Tòa án tuyên bố “không công nhận là vợ chồng hoặc hủy hôn nhân trái pháp luật”. Trong khi đó, nội dung này và các chứng cứ liên quan đến nội dung này là cơ sở pháp lý đặc biệt quan trọng để xác định quyền lợi của các bên khi phân chia tài sản chung. Sai sót do xác định, phân định không đúng khối tài sản chung:Một số Hội đồng xét xử khi xem xét yêu cầu của đương sự đã không phân định được đâu là tài sản chung của vợ chồng, đâu là tài sản riêng của từng người, đâu là tài sản có liên quan đến người thứ ba, nhất là những trường hợp trước khi kết hôn một bên đã được cơ quan thẩm quyền cấp hoặc công nhận quyền sử dụng tài sản riêng hoặc sau khi kết hôn vợ, chồng được cha, mẹ cho đất để làm nhà ở nhưng chưa làm thủ tục đầy đủ…. Theo đó, Hội đồng xét xử chỉ dựa trên tình hình thực tế của quá trình sử dụng tài sản đó để xác định ý chí của các bên về nhập tài sản riêng vào tài sản chung.

Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây cùng với sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế – một khái niệm quen thuộc của cơ chế kế hoạch hóa đã ăn sâu trong tiềm thức và tư duy pháp lý của người Việt Nam.

Tại Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hành hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”. Theo quy định trên, có thể hiều: Tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn [bất đồng hoặc xung đột] về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại.

Các tranh chấp thương mại nhìn chung có những đặc điểm sau đây: 

Thứ nhất, Chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại là thương nhân: Quan hệ thương mại có thể được thiết lập giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với bên không phải là thương nhân. Một tranh chấp được coi là tranh chấp thương mại khi có ít nhất một bên là thương nhân. Ngoài ra cũng có một số trường hợp, các cá nhân tổ chức khác cũng có thể là chủ thể của tranh chấp thương mại: tranh chấp giữa công ty – thành viên công ty; tranh chấp giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, hợp nhất, giải thể, chia, tách…công ty;

Thứ hai,căn cứ phát sinh tranh chấp thương mại là hành vi vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật:Trong nhiều trường hợp, tranh chấp thương mại phát sinh do các bên có vi phạm hợp đồng và xâm hại lợi ích của nhau, tuy nhiên cũng có thể có những vi phạm xâm hại lợi ích của các bên nhưng không làm phát sinh tranh chấp. Nội dung của tranh chấp thương mại là những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên trong hoạt động thương mại. Các quan hệ thương mại có bản chất là các quan hệ tài sản, nên nội dung tranh chấp thương liên quan trực tiếp tới lợi ích kinh tế của các bên. Ngoài ra, tranh chấp thương mại còn chịu chi phối của các yếu tố cơ bản của hoạt động này như: mục đích sinh lợi, các yêu cầu về thời cơ kinh doanh và yêu cầu giữ bí mật thông tin liên quan đến hoạt động kinh doanh.

Thứ ba, về các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại:Tranh chấp thương mại đòi hỏi được giải quyết thỏa đáng nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân, góp phần ngăn ngừa sự vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại, bảo đảm trật tự pháp luật, kỷ cương xã hội. Hiện nay tranh chấp thương mại được giải quyết bằng các phương thực: thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án. Mỗi phương thức có sự khác nhau về tính chất pháp lý, nội dung của thủ tục, trình tự tiến hành. Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, phụ thuộc vào lợi thế mà mỗi phương thức có thể mang lại, mức độ phù hợp của phương thức so với nội dung tính chất của tranh chấp và thiện chí của các bên.

– Hình thức giải quyết tranh chấp thương mại: Điều 317 Luật thương mại 2005 quy định về các hình thức giải quyết tranh chấp thương mại bao gồm:

+ Thương lượng giữa các bên.

+ Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.

+ Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.

Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài, Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà án do pháp luật quy định.

Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm 5 loại tranh chấp.

1- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

2- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

3- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.

4- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.

5- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.

Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã kế thừa quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Tuy nhiên, quy định tại khoản 1 Điều này đã không đi theo hướng liệt kê cụ thể các tranh chấp phát sinh hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận như quy định tại khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 nữa. Khoản 1 Điều 30 BLTTDS 2015 đã thiết lập một quy tắc có tính khái quát trong việc xác định các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền của Tòa án, được phân định thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Điều 26 BLTTDS năm 2015 trên 3 dấu hiệu là: tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại; giữa các chủ thể có đăng ký kinh doanh; các chủ thể này đều có mục đích lợi nhuận. do vậy, tranh chấp không thỏa mãn 03 dấu hiệu này có thể được coi là tranh chấp dân sự.

Khoản 2 Điều 30 BLTTDS 2015 tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ được phân biệt với khoản 1 của Điều luật này ở chỗ không đòi hỏi dấu hiệu về đăng ký kinh doanh của các chủ thể có tranh chấp đồng thời phân biệt với thẩm quyền của Tòa án đối với tranh chấp dân sự quy định tại Khoản 4 Điều 26 của Bộ luật này là ở dấu hiệu lợi nhuận. các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ thong tin giữa các chủ thể đều có mục đích lợi nhuận thì được coi là tranh chấp về kinh doanh, thương mại, nếu không thỏa mãn dấu hiệu này thì được coi là tranh chấp dân sự.

Khoản 3 Điều 30 BLTTDS năm 2015 mở rộng thêm một dạng tranh chấp nảy sinh từ thực tiễn là tranh chấp về giao dịch về chuyển nhương phần vốn góp giữa người chưa phải là  thành viên công ty với công ty, thành viên công ty.

Theo Điều 3 khoản 7 Bộ luật lao động năm 2012 “Tranh chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp lao động tập thể giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động.”

Những đặc điểm của tranh chấp lao động :

– Tranh chấp lao động phát sinh tồn tại gắn liền với quan hệ lao động. Mối quan hệ này thể hiện ở hai điểm cơ bản: Các bên tranh chấp bao giờ cũng là chủ thể của quan hệ lao động và đối tượng tranh chấp chính là nội dung của quan hệ lao động đó. Trong quá trình thực hiện quan hệ lao động, có nhiều lý do để các bên không thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đã được thống nhất ban đầu. Ví dụ, một trong hai bên chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình, hoặc điều kiện thực hiện hợp đồng, thoả ước đã thay đổi làm cho những quyền và nghĩa vụ đã xác định không còn phù hợp, hoặc cũng có thể do trình độ xây dựng hợp đồng và sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế dẫn đến các bên không hiểu đúng các qui định của pháp luật, các thoả thuận trong hợp đồng.

– Tranh chấp lao động không chỉ là những tranh chấp về quyền mà còn bao gồm cả những tranh chấp về lợi ích của các bên trong quan hệ lao động.  Thực tế, hầu hết các tranh chấp khác [như tranh chấp dân sự] thường xuất phát từ sự vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng hoặc do không hiểu đúng quyền và nghĩa vụ đã được xác lập mà dẫn đến tranh chấp. Riêng tranh chấp lao động có thể phát sinh trong trường hợp không có vi phạm pháp luật. Đặc điểm này bị chi phối bởi bản chất quan hệ lao động và cơ chế điều chỉnh của pháp luật. Trong nền kinh tế thị trường các bên của quan hệ lao động được tự do thương lượng, thoả thuận hợp đồng, thoả ước phù hợp với quy luật của pháp luật cũng như khả năng đáp ứng của mỗi bên. Quá trình thoả thuận thương lượng đó không phải bao giờ cũng đạt kết quả. Ngay cả khi đạt kết quả thì những nội dung đã thoả thuận được cũng có thể trở thành không phù hợp do các yếu tố mới phát sinh tại thời điểm tranh chấp.

Tính chất và mức độ của tranh chấp lao động luôn phụ thuộc vào quy mô và số lượng tham gia của một bên tranh chấp là người lao động. Tranh chấp lao động chỉ phát sinh giữa một người lao động và người sử dụng lao động [đối tượng tranh chấp là quyền, nghĩa vụ, lợi ích chỉ liên quan đến một cá nhân người lao động] thì tranh chấp đó đơn thuần là tranh chấp cá nhân.

Trong tranh chấp lao động cá nhân, sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ ở mức độ hạn chế nên thường được xem là ít nghiêm trọng. Nhưng nếu trong một thời điểm, có nhiều người lao động cùng tranh chấp với người sử dụng lao động, những tranh chấp đó lại cùng nội dung và nhất là khi những người lao động này cùng liên kết với nhau thành một tổ chức thống nhất để đấu tranh đòi quyền lợi chung thì những tranh chấp lao động đó mang tính tập thể.

Mức độ ảnh hưởng của tranh chấp tập thể tùy thuộc vào phạm vi xảy ra tranh chấp. Tranh chấp lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân, gia đình người lao động, nhiều khi còn tác động đến an ninh công cộng. Đặc điểm này xuất phát từ bản chất quan hệ lao động là quan hệ chứa đựng nhiều vấn đề mang tính xã hội như thu nhập, đời sống, việc làm của người lao động. Vì vậy, khi tranh chấp lao động xảy ra, quan hệ lao động có nguy cơ bị phá vỡ, người lao động có thể bị mất việc làm, mất thu nhập, mất nguồn đảm bảo cuộc sống thường xuyên cho bản thân và gia đình nên đời sống của họ trực tiếp bị ảnh hưởng. Người sử dụng lao động và cả người lao động sẽ phải tốn thời gian, công sức vào quá trình giải quyết tranh chấp nên có thể việc sản xuất kinh doanh bị gián đoạn. Nghiêm trọng hơn, là khi tranh chấp lao động tập thể xảy ra ở những doanh nghiệp thiết yếu của nền kinh tế quốc dân hoặc an ninh quốc phòng, trong một ngành hoặc một địa phương, thì còn có thể ảnh hưởng đến sự phát triển và đời sống xã hội trong cả một khu vực, thậm chí có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Nếu không giải quyết kịp thời, những tranh chấp đó có thể ảnh hưởng tới an ninh công cộng và đời sống chính trị xã hội của quốc gia.

Điều 32 BLTTDS 2015 quy định những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:

1- Tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động phải thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động mà hòa giải thành nhưng các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, hòa giải không thành hoặc không hòa giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh chấp lao động sau đây không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải:

a] Về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức sa thải hoặc tranh chấp về trường hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;

b] Về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;

c] Giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động;

d] Về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế, về bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật về việc làm, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động;

đ] Về bồi thường thiệt hại giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

2- Tranh chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết mà tập thể lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định đó hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện không giải quyết.

3- Tranh chấp liên quan đến lao động bao gồm:

a] Tranh chấp về học nghề, tập nghề;

b] Tranh chấp về cho thuê lại lao động;

c] Tranh chấp về quyền công đoàn, kinh phí công đoàn;

d] Tranh chấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động.

4- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp.

5- Các tranh chấp khác về lao động, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật

Các quan hệ pháp luật tranh chấp trong tố tụng dân sự rất phong phú, đa dạng về chủ thể, khách thể, nội dung, các mối quan hệ phát sinh tranh chấp…việc phân loại quan hệ pháp luật tranh chấp không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa cả về mặt thực tế để hiểu đúng quan hệ giữa các bên và áp dụng đúng pháp luật nhằm giải quyết các tranh chấp có thể xảy ra. Có nhiều cách phân loại khác nhau, mỗi cách phân loại đều dựa vào những căn cứ cụ thể và có ý nghĩa thực tế nhất định.

Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung [điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên] trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự. Để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, cần phải dựa vào yêu cầu của đương sự và quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội mà đương sự tham gia. Trên thực tế, do quan hệ pháp luật đa dạng, tồn tại đan xen nhau nên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp dựa vào yêu cầu của người khởi kiện không hề dễ dàng.

Việc xác định đúng quan hệ pháp luật trong tố tụng dân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng, bởi chỉ khi đã xác định đúng quan hệ pháp luật, mới xác định đúng thẩm quyền giải quyết; các tranh chấp đó thuộc loại tranh chấp nào, căn cứ vào luật nội dung nào áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án.

Trong tố tụng dân sự, việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung [điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên] trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự. Để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, cần phải dựa vào yêu cầu của đương sự và quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội mà đương sự tham gia. Trên thực tế, do quan hệ pháp luật đa dạng, tồn tại đan xen nhau nên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp dựa vào yêu cầu của người khởi kiện không hề dễ dàng.

Tóm tắc nội dung vụ án

 Ngày 25/6/2005al, bà có bán cho bà Nhỏ 10.000kg cám, giá tiền 2.920đ/kg thành tiền 29.200.000đ. Ngày 28/6/2005al, bán cho bà Nhỏ 20.000kg cám, giá tiền 3.620đ/kg thành tiền 72.200.000đ. Ngày 02/7/2005al, bà bán cho bà Nhỏ 5.000kg cám, giá tiền 3.400đ/kg thành tiền 17.000.000đ. Tổng cộng 3 lần là 35 tấn = 118.400.000 đồng. Việc mua bán giữa hai bên không làm giấy tờ, khi mua có thỏa thuận là 10 ngày trả tiền. Khoảng hơn 1 tháng sau, bà không thấy bà Nhỏ trả tiền nên bà đi tìm hiểu thì được những người mua cám của bà Nhỏ cho biết đã trả tiền dứt. Bà có đến gặp bà Nhỏ để yêu cầu trả tiền thì bà Nhỏ hẹn trả, nhưng bà Nhỏ không trả, bà làm đơn kiện đến ấp Bình Phú I được nơi đây hòa giải 03 lần vào các ngày 19/10/2005, 27/10/2005 và ngày 22/12/2005 không thành và xã Phú Bình hòa giải các ngày 24/6/2010 và 23/9/2010 cũng không thành. Do bà Nhỏ chỉ thừa nhận có mua của bà 10 tấn cám nên bà yêu cầu Tòa án buộc bà Nhỏ trả cho bà 10 tấn cám trị giá 60.000.000 đồng.

Trong năm 2005 [không nhớ ngày tháng], bà có cho bà Nhỏ mượn không tính lãi số tiền 5.000.000 đồng. Không làm giấy tờ, bà Nhỏ hẹn khi nào trả tiền cám sẽ trả luôn, bà có đòi nhiều lần nhưng bà Nhỏ cứ hẹn, không trả. Do đó, bà yêu cầu bà Nhỏ trả cho bà số tiền 5.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bà yêu cầu bà Nhỏ trả 10 tấn giá trị giá 60.000.000đ và tiền gốc 5.000.000đ, tổng cộng 65.000.000 đồng.

Bà Nhỏ cho rằng chỉ mua cám của bà Mai 01 lần chứ không phải 03 lần như bà Mai đã khai, thời điểm mua không nhớ ngày tháng năm, nhưng cách nay trên 10 năm, bà Nhỏ mua 10.000kg cám, giá 2.920đ/kg = 29.200.000đ. Sau khi đem cám xuống ghe xong, bà Nhỏ lên nhà bà Mai trả ngay số tiền 29.200.000đ do bà Mai trực tiếp nhận. Như vậy, bà Nhỏ không còn nợ tiền mua cám đối với bà Mai.

Ngày 07/02âl/2002, bà Nhỏ có nhận vay của bà Mai 5.000.000đ [không làm biên nhận và không người khác chứng kiến] giao ước tiền lãi sẽ trả mỗi ngày là 3000đ/1.000.000đ/ ngày, tức 450.000đ/tháng nhưng không trả lãi hàng ngày mà đến tháng sẽ trả một lần, bà Nhỏ đã trực tiếp trả tiền lãi liên tục, đầy đủ đến tháng 11âl/2004 đều do bà Mai trực tiếp nhận, không làm giấy tờ, không ai chứng kiến. Sau đó, không có khả năng trả lãi và vốn nên vào năm 2005, bà Mai kiện chị đến ấp và UBND xã Phú Bình. Như vậy, bà Nhỏ vẫn còn nợ 5.000.000đ từ tháng 12/2004 đến nay. Bà Nhỏ đồng ý trả tiền gốc 5.000.000đ cho bà Mai.

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn trình bày luận cứ bảo vệ: Bà Nhỏ thừa nhận có nợ bà Mai 5.000.000đ nên có căn cứ để HĐXX buộc bà Nhỏ trả cho bà Mai 5.000.000đ. Bà Nhỏ xác nhận có mua 10 tấn cám, giá 2.920đ/kg đã thanh toán rồi, đại diện của bà Nhỏ trình bày là không có sự thỏa thuận nào trả tiền sẽ tính theo giá thời điểm đó, bà Mai cũng không cung cấp được chứng cứ của sự thỏa thuận này. Các bản án trước xác định bà Nhỏ phải trả cho bà Mai 29.200.000đ của tiền bán cám 10 tấn chưa trả, cần coi đây là tài sản, nên bà Mai yêu cầu trả tài sản không thể áp dụng thời hiệu 02 năm của BLDS 2005. Theo Điều 115 Bộ luật dân sự [BLDS] 2015 khi đòi tài sản không áp dụng thời hiệu. Đề nghị HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Mai, buộc bà Nhỏ trả cho bà Mai 29.200.000đ.

Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định: Việc bà Mai bán 10 tấn cám cho bà Nhỏ với giá 2.920đ/kg, thành tiền: 29.200.000đ phải xác định đây là hợp đồng mua bán, bên bán đã giao hàng và bên mua đã nhận hàng coi như các bên đã thực hiện hợp đồng được quy định tại Điều 428 Bộ luật dân sự 2005: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Bà Nhỏ chậm trả tiền là vi phạm nghĩa vụ của người mua được quy định tại Điều 438 Bộ luật dân sự. Như vậy, bà Mai có quyền yêu cầu bà Nhỏ thực hiện nghĩa vụ trả tiền và tiền lãi được quy định tại Điều 305 Bộ luật dân sự 2005 theo quy định pháp luật. Nếu bà Mai yêu cầu bà Nhỏ trả tiền mua cám thì HĐXX xem xét giải quyết. Nhưng, bà Mai cho rằng có sự thỏa thuận khi nào trả tiền sẽ tính giá cám tại thời điểm trả nên bà khởi kiện yêu cầu trả 10 tấn cám, giá 6.000đ/kg tại tháng 3 năm 2016, thành tiền: 60.000.000đ cần xác định đây là tranh chấp về giá cả của hợp đồng mua bán, mà tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản thì theo đại diện bị đơn cho rằng hết thời hiệu khởi kiện, nên HĐXX cần xác định thời hiệu khởi kiện như đại diện của bị đơn yêu cầu. Bà Mai, bà Nhỏ thừa nhận hợp đồng mua bán được các bên xác lập ngày 25/6/2005al và thời điểm vi phạm phát sinh tranh chấp từ ngày 19/10/2005, ngày mà bà Mai yêu cầu Ban nhân dân ấp Bình Phú I, và được UBND xã Phú Bình giải quyết, hòa giải nhiều lần không thành nên bà Mai khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Phú Tân ngày 11/10/2010. Vậy, ngày phát sinh tranh chấp là ngày 19/10/2005 đến ngày 11/10/2010 là 4 năm 11 tháng 20 ngày. Theo quy định tại Điều 427 Bộ luật dân sự 2005 nên thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng mua bán là 02 năm, nếu tranh chấp về giá cả của hợp đồng mua bán giữa bà Mai với bà Nhỏ xác lập ngày 25/6/2005al là đã hết thời hiệu khởi kiện, nguyên đơn cũng biết rằng tranh chấp về hợp đồng mua bán hết thời hiệu và đã kiện lại với yêu cầu đòi 10 tấn cám trị giá 60.000.000đ thể hiện tại đơn khởi kiện ngày 30/3/2014.

Xét, bà Mai kiện đòi 10 tấn cám, trị giá 6.000đ/kg thành tiền: 60.000.000đ. Hội đồng xét xử xét thấy:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 178 quy định: “1. vật tiêu hao là vật khi đã qua một lần sử dụng thì mất đi hoặc không giữ được tính chất, hình dáng và tính năng sử dụng ban đầu.

Vật tiêu hao không thể là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn.”

Như vậy, cám là vật tiêu hao, thời gian lưu trữ không lâu [3 tháng được bà Mai, bà Nhỏ xác nhận tại biên bản đối chất ngày: 26/8/2016] nên bà Mai đòi bà nhỏ trả 10 tấn cám từ năm 2005 đến nay, không xác định loại cám gì, cám mịn [cám lau] hay cám to nên không thể xác chủng loại cám. Cám không là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn nên yêu cầu của bà Mai yêu cầu bà Nhỏ trả cám từ năm 2005 không còn cám ban đầu [bà Mai giao cho bà Nhỏ] là không phù hợp theo quy định pháp luật.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 23 Nghị quyết số: 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của HĐTPTANDTC quy định: Đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự [hợp đồng vay tài sản, hợp đồng gửi giữ tài sản, thuê tài sản, thuê khoán tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất]”. Như vậy, tranh chấp về hợp đồng mua bán không thể chuyển thành đòi tài sản được nên bà Mai không có quyền khởi kiện. HĐXX đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của bà Mai đối với bà Nhỏ tranh chấp dân sự về đòi tài sản [cám].

Việc nhận định “cám là vật tiêu hao, thời gian lưu trữ không lâu [3 tháng được bà Mai, bà Nhỏ xác nhận tại biên bản đối chất ngày: 26/8/2016] nên bà Mai đòi bà nhỏ trả 10 tấn cám từ năm 2005 đến nay, không xác định loại cám gì, cám mịn [cám lau] hay cám to nên không thể xác chủng loại cám. Cám không là đối tượng của hợp đồng cho thuê hoặc hợp đồng cho mượn nên yêu cầu của bà Mai yêu cầu bà Nhỏ trả cám từ năm 2005 không còn cám ban đầu [bà Mai giao cho bà Nhỏ] là không phù hợp theo quy định pháp luật của Hội đồng xét xử sơ thẩm là máy móc; bởi vì xuất phát từ giao dịch dân sự cụ thể là hợp đồng mua bán cám giữa bà Mai và bà Nhỏ, từ trên thực tế bà Mai đã giao cho bà Nhỏ 10.000 kg cám [được bà Nhỏ thừa nhận], bà Mai cho rằng bà Nhỏ chưa trả giá trị tài sản 10.000 kg  cám đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Mai, nên bà Mai có quyền khởi kiện yêu cầu bà Nhỏ phải trả lại tài sản mà bà Nhỏ chiếm giữ.

Trong trường hợp này Tòa án cấp sơ thẩm phải giải quyết yêu cầu đòi lại tài sản của bà Mai, còn việc có chấp nhận yêu cầu của bà Mai hay không tùy thuộc vào việc đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử sơ thẩm viện dẫn quy định Khoản 3 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, cho rằng mua bán không thể chuyển thành đòi tài tài sản được, nên bà Mai không có quyền khởi kiện và đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Mai đối với bà Nỏ về tranh chấp dân sự đòi tài sản là thiếu căn cứ, trái với quy định tại Điều 161 Bộ luật tố tụng Dân sự 2004 và Điều 186 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 về quyền khởi kiện vụ án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Mai.

Bên cạnh hợp đồng dân sự được quy định trong Bộ luật dân sự, tùy từng lĩnh vực, các luật chuyên ngành còn quy định hợp đồng trong từng lĩnh vực cụ thể như: hợp đồng lao động trong Bộ luật lao động, hợp đồng kinh doanh thương mại trong Luật Thương mại… Theo Điều 281 Bộ luật dân sự, một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự; vì vậy, khi hợp đồng dân sự  kết thúc thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận khi chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật chuyên ngành không quy định cụ thể việc các bên trong hợp đồng phải tuân thủ nghĩa vụ sau khi thỏa thuận chấm dứt hợp đồng như trong Bộ luật dân sự. Cho nên, sau khi các bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng, một trong các bên khởi kiện yêu cầu bên kia thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận sẽ gây khó khăn cho Tòa án trong việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Ví dụ thứ nhất: Nhân viên Công ty Cổ phần dược phẩm P [Công ty P] có thỏa thuận miệng với ông N.V.T [chủ Nhà thuốc D.T, có đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể] là Công ty P sẽ bán thuốc tân dược cho Nhà thuốc D.T theo yêu cầu của ông T. Phương thức giao nhận thuốc và thanh toán tiền theo từng đợt. Trong khoảng thời gian từ ngày 01/10/2008 đến ngày 14/7/2012, ông T đã nhận thuốc của Công ty P nhiều đợt và nợ lại một số tiền. Sau đó, ông T ngưng mua thuốc của Công ty P. Theo biên bản làm việc ngày 14/8/2012 giữa ông T với đại diện Công ty P, ông T thừa nhận còn nợ lại Công ty số tiền mua thuốc 100 triệu đồng và 02 bên thỏa thuận ông T sẽ trả cho Công ty P mỗi tháng 10 triệu đồng cho đến khi dứt nợ. Sau đó, vào ngày 26/8/2012, ông T đã trả được 10.000.000 đồng và ngưng không thanh toán tiếp mặc dù Công ty đã nhiều lần yêu cầu. Vì vậy, Công ty P khởi kiện yêu cầu ông T phải cho Công ty P số nợ còn lại là 90 triệu đồng.

Đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty P, có 02 quan điểm khác nhau về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, ông T đã thừa nhận còn nợ tiền mua thuốc tân dược của Công ty P nên xem như các bên đã thanh lý hợp đồng xong. Cho nên, quan hệ pháp luật tranh chấp là “tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự”, nên đây là vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án theo khoản 12 Điều 25 BLTTDS.

Quan điểm thứ hai cho rằng, khoản nợ của ông T xuất phát từ hợp đồng mua bán thuốc tân dược giữa ông T với Công ty P. Ông T đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên quan hệ pháp luật tranh chấp là “tranh chấp hợp đồng mua bán thuốc tân dược” và đây là vụ án kinh doanh thương mại do các bên đều có đăng ký kinh doanh và việc giao kết hợp đồng đều vì mục đích lợi nhuận. Cho nên, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điểm a khoản 1 Điều 29 BLTTDS.

Trường hợp này, chúng ta thống nhất với quan điểm thứ nhất. Bởi vì, Luật Thương mại đã bỏ chế định về thanh lý hợp đồng mà trước đây Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định. Khoản 3 Điều 4 Luật Thương mại quy định “Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự”. Vì vậy, việc xác định nghĩa vụ sau khi các bên thỏa thuận kết thúc hợp đồng áp dụng quy định của Bộ luật dân sự. Điều 280 Bộ luật dân sự quy định: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể [sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ] phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác [sau đây gọi chung là bên có quyền].” Một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự [khoản 1 Điều 281 Bộ luật dân sự] và hợp đồng dân sự là “sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Chúng ta thấy rằng, hợp đồng dân sự có phạm vi rộng bao gồm cả hợp đồng trong lĩnh vực thương mại vì Bộ luật dân sự là luật gốc, Luật Thương mại là luật chuyên ngành. Vì vậy, việc áp dụng quy định nghĩa vụ dân sự xuất phát từ hợp đồng kinh doanh thương mại là phù hợp với quy định của pháp luật. Trở lại tranh chấp trên, theo chúng tôi, do pháp luật điều chỉnh nghĩa vụ của ông T là Bộ luật Dân sự cho nên việc Tòa án thụ lý vụ án dân sự và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “tranh chấp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự” là phù hợp quy định của pháp luật. Đối chiếu thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự của Tòa án tại các khoản từ khoản 1 đến khoản 11 Điều 25 thì tranh chấp này không được liệt kê cho nên việc áp dụng khoản 12 Điều 25 “Các tranh chấp khác về dân sự mà pháp luật có quy định” để thụ lý và giải quyết là phù hợp.

Qua những phân tích ở trên ta có thể thấy việc xác định quan hệ tranh chấp phát sinh tố tụng dân sự rất khó khăn và phức tạp dễ bị nhầm lẫn các quan hệ này chồng lấn qua các quan hệ khác, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà các tranh chấp phát sinh ngày càng đa dạng và phức tạp, nguyên nhân chính dẫn đến việc xác định sai các quan hệ tranh chấp đó như sau:

Thứ nhất, trong các mối quan hệ xã hội thì các tranh chấp rất đa dạng, thường khi yêu cầu Tòa án giải quyết một vụ thì đương sự khi cung cấp chứng cứ tài liệu chứng minh cho việc của mình hay là yêu cầu của mình không rõ rãng, chứng cứ còn nhiều mâu thuẫn, trong một vụ án mà các yêu cầu giải quyết tranh chấp quá nhiều, có nhiều trường hợp trùng các mối quan hệ tranh chấp.

Thứ hai, theo nguyên tắc khi thụ lý giải quyết một vụ án dân sự thì thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện đã xem xét, kiểm tra nội dung đơn khởi kiện để xác định quan hệ tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, có một số trường hợp các tranh chấp phát sinh đó lại phát hiện sau khi tòa án thụ lý hoặc khi giải quyết tranh chấp thì mới phát sinh các mối quan hệ đó, thường thì do ý chí chủ quan của các thẩm phán, không xem xét lại các yêu cầu đó hoặc là tại giai đoạn thụ lý xác định sai các mối quan hệ tranh chấp. Do đó, dẫn đến việc áp dụng pháp luật nội dung không đúng, dẫn đến việc bản án bị chỉnh sửa, hủy.

Thứ ba,việc điều chỉnh pháp luật của chúng ta chưa kịp thời trong khi các quan hệ tranh chấp phát sinh càng đa dạng, phức tạp, như Bộ luật dân sự 2015 đã có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung so với quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về các mối quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản, nhưng cũng không thể quy định bao trùm hết các tranh chấp có thể phát sinh trong tương lai, trong khi đó Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự ngay cả trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng.

Thứ tư, việc xác định quan hệ tranh chấp còn có một khó khăn nữa là trong một vụ án dân sự có thể chỉ có một quan hệ tranh chấp nhưng cũng có nhiều quan hệ tranh chấp đan xen nhau.

Từ việc xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp sẽ dẫn đến xác định đúng thẩm quyền giải quyết, thời hiệu khởi kiện. Khi xác định quan hệ pháp luật tranh chấp chúng ta thường phải dựa vào yêu cầu của đương sự và quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội mà đương sự tham gia. Tuy nhiên trên thực tế, do quan hệ pháp luật rất đa dạng, nó không chỉ tồn tại ở một dạng đơn nhất mà có những trường hợp trong cùng một vụ án đan xen nhiều dạng quan hệ pháp luật khác nhau, mặt khác không phải đương sự nào khi làm đơn khởi kiện cũng định hướng được đúng vấn đề tranh chấp.

Bộ luật tố tụng dân sự quy định, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ, việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vị đơn khởi kiện đơn yêu cầu đó. Căn cứ việc đương sự yêu cầu giải quyết vấn đề gì để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp. Việc xác định đúng, đầy đủ quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các tài liệu chứng cứ cần thu thập; xác định đương sự của vụ án; xác định được căn cứ pháp luật cần áp dụng để giải quyết. Trên thực tế quan hệ pháp luật đa dạng, phức tạp nên việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp dựa vào yêu cầu của đương sự  trong một số trường hợp không hề dễ dàng, xảy ra nhiều khó khăn vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong việc áp dụng pháp luật nội dung [điều chỉnh quyền và nghĩa vụ giữa các bên] trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự. Để xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, cần phải dựa vào yêu cầu của đương sự và quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội mà đương sự tham gia.

Trên thực tế, khi giải quyết một vụ án việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp vô cùng khó khăn và phức tạp, khi chúng ta không nắm được các điều kiện và căn cứ áp dụng pháp luật dễ tạo sai sót trong quá trình giải quyết vụ án, việc đó không những ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự, mà còn ảnh hưởng đến công việc của một người thẩm phán, ngoài ra khi xác định sai quan hệ pháp luật dẫn đến cả việc áp dụng pháp luật nội dung khi giải quyết không đúng, xác định tư cách đương sự không chính xác gây khó khăn trong việc giải quyết vụ án, mất niềm tin trong quần chúng nhân dân. Trong hiến pháp chúng ta đã quy định rõ ràng tất cả mọi công dân đều ngang quyền và bỉnh đẳng trước pháp luật. Vì vậy, trước khi muốn đảm bảo quyền của các đương sự khi tham gia tố tụng trong vụ án dân sự chúng ta cần nhất là xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, từ đó mới hình thành được tư cách các đương sự khi tham gia giải quyết, tạo được sự công bằng cho các đương sự. Do đó,đểxác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự một cách chính xác, chúng ta không ngừng trâu dồi kiến thức, năng lực chuyên môn, nỗ lực hơn nữa trong việc xây dựng và phát triển năng lực phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử, xứng đáng là người cán bộ Phụng công thủ pháp, chí công vô tư.

Qua nghiên cứu, phân tích và trong thực tiễn xét xử khi xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự là rất khó khăn và phức tạp. Vì vậy, để xác định các mối quan hệ tranh chấp một cách chính xác, đảm bảo được các nguyên tắc bình đẳng, công bằng, cho các đương sự trong giải quyết tranh chấp, cá nhân tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến, giải pháp như sau:

– Hoàn thiện Bộ luật tố tụng dân sự: Như đã khẳng định, hiện nay các tranh chấp phát sinh trong vụ án dân sự vô cùng phức tạp và khó khăn, để điều chỉnh phù hợp với quá trình phát triển đất nước, đảm bảo được các quyền lợi của đương sự trong việc yêu cầu Tòa án giải quyết một vụ án dân sự, những nhà làm luật chúng ta không ngừng thay đổi và bổ sung những điều mới trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, với su thế phát triển của đất nước thì các tranh chấp luôn tồn tại đan xen nhau, đa dạng về loại vụ việc từ đó các quyền lợi của nhân dân cũng dễ dàng bị xâm phạm. Do đó, việc hoàn thiện hơn bộ luật tố tụng dân sự cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định các quan hệ tranh chấp, để đưa ra được hướng xử lý và giải quyết đúng đắn đối với một vụ án, để áp dụng pháp luật nội dung chính xác trong quá trình giải quyết vụ án. Trong bộ luật tố tụng dân sự chúng ta còn quy định về áp dụng lẽ công bằng, tương tự pháp luật,… để giải quyết một số tranh chấp, vì có một số loại tranh chấp chưa được pháp luât nội dung điều chỉnh.

– Giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật: Do xu thế của nền kinh tế thị trường hiện nay là đang trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, nhiều quan hệ xã hội mới hình thành và phát triển cùng với sự thay đổi một số chính sách cụ thể trong khi văn bản Luật yêu cầu phải khái quát cao, định ra những quy định chung nhất và phổ biến nhất từ những vấn đề cụ thể. Như vậy những vấn đề và các quan hệ xã hội đang còn nhiều thay đổi và chuyển biến nên đã được điều chỉnh bằng các quy định tại văn bản dưới Luật, như vậy tính pháp lý không cao nếu những điều đó được điều chỉnh bằng văn bản Luật thông qua sửa đổi, bổ sung văn bản Luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì sẽ tốt hơn. Bên cạnh đó thì Nhà nước cần quan tâm đến công tác giải thích pháp luật để tạo lập một cách hiểu thống nhất và chính xác trong quá trình áp dụng pháp luật. Giải thích pháp luật nói chung và giải thích chính thức các quy phạm pháp luật là công việc hết sức cần thiết để đưa các quy phạm pháp luật vào đời sống xã hội. Nếu được quan tâm đúng mức, công tác giải thích pháp luật sẽ góp phần rất lớn vào việc nhận thức đúng, chính xác và thống nhất bản chất chính trị pháp lý của nội dung quy phạm pháp luật khi tiến hành các hoạt động áp dụng pháp luật.

Với một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ và được nhận thức, hướng dẫn thi hành một cách thống nhất, kịp thời phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đời sống xã hội thì việc áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân sẽ có đầy đủ cơ sở pháp lý, có đủ điều kiện cần thiết để các chủ thể áp dụng pháp luật có thể cân nhắc, phân loại các quan hệ tranh chấp trong hoạt động tiến hành tố tụng của mình một cách chính xác, chất lượng áp dụng sẽ được bảo đảm và được nâng cao hơn. Điều đó cũng có ý nghĩa thiết thực đối với việc khắc phục tình trạng chủ quan, tùy tiện, thiếu thống nhất khi ban hành bản án, quyết định trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân hiện nay.

-Tăng cường công tác hướng dẫn xét xử, đẩy mạnh công tác giải thích, giải đáp pháp luật, hướng dẫn nghiệp vụ và một số nguyên tắc chung trong việc xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự.Về quy trình xác định các quan hệ tranh chấp trong vụ án cụ thể hiện vẫn còn nhiều vướng mắc và nhiều ý kiến khác nhau ở mỗi Tòa án, mỗi cấp xét xử, mỗi thẩm phán. Do đó, cần có sự giải thích để đi đến sự nhận thức thống nhất về nội dung của các loại tranh chấp. Sau khi tiến hành hoạt động giải thích, tăng cường tập huấn, giải đáp nghiệp vụ cần phải tập hợp, hệ thống hóa toàn bộ lại để tạo ra hệ thống cụ thể tránh tình trạng như hiện nay những hướng dẫn giải đáp về xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau dẫn đến hệ quả là việc tiếp cận, nghiên cứu, vận dụng khi xét xử còn gặp nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, chưa kể sự hướng dẫn trong các văn bản đôi khi mâu thuẫn, chồng chéo nhau, chưa đầy đủ nhưng do nằm ở nhiều văn bản khác nhau nên việc cập nhật thông tin, tiếp cận chúng rất hạn chế ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định tranh chấp khi giải quyết một vụ án và trong công tác xét xử.

– Tăng cường tổng kết thực tiễn xét xử: Với đặc trưng là kinh nghiệm xét xử cần được trau dồi, học tập lẫn nhau thường xuyên vì trong thực tế mỗi vụ án lại có một màu sắc khác nhau nên bên cạnh việc ban hành mới văn bản luật, cần chú trọng đến việc tổ chức tổng kết, đánh giá việc thực hiện các văn bản luật đã ban hành một cách toàn  diện và đầy đủ nhằm kịp thời đề xuất, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những quy phạm pháp luật đã lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của xã hội. Hơn nữa pháp luật đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh là có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử của các Tòa án mà cụ thể là Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh phải có trách nhiệm tổ chức thực hiện. Việc tổng kết kinh nghiệm xét xử là việc tiến hành đánh giá lại các quá trình áp dụng pháp luật để ban hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân đã thực hiện và hình thành những quan điểm lý luận, những hướng dẫn chung được đúc kết từ thực tiễn áp dụng pháp luật để bảo đảm mọi quyết định và bản án được ban hành từ một chuẩn chung là pháp luật. Tổng kết kinh nghiệm xét xử bao gồm cả việc xem xét, đánh giá kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, tài liệu vụ án của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân; kỹ năng tìm và chọn lựa quy phạm pháp luật phù hợp để giải quyết những yêu cầu của vụ án và cả kỹ năng thực hiện các thao tác bắt buộc của quy trình tố tụng khi xét xử như xét hỏi, điều khiển tranh luận, nghị án và ban hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân. Công tác tổng kết kinh nghiệm xét xử giúp cho ngành Tòa án nhân dân có điều kiện tìm ra những nguyên nhân xét xử đúng pháp luật và cả nguyên nhân sai lầm khi áp dụng các quy phạm pháp luật. Việc tổng kết kinh nghiệm xét xử có một ý nghĩa rất quan trọng về mặt lý luận lẫn thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng và trong công tác xây dựng, hoàn thiện các quy phạm pháp luật nói chung cũng như các quy định về xác định các quan hệ tranh chấp phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án.

– Cần trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật chính thức, đặt biệt trao cho Thẩm phán giải thích pháp luật qua các vụ án cụ thể:

Hàng ngày, Tòa án phải đối đầu với những tình huống có qui định nhưng chưa rõ nghĩa, có thoả thuận nhưng thỏa thuận chưa rõ ràng,  hoặc không có qui định điều chỉnh những tình huống đó, nhiều tình huống phát sinh trong thời kỳ hội nhập, ở những lĩnh vực mới mà pháp luật chưa kịp thời can thịp, cũng không phải là tập quán. Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 và Luật tố tung dân sự năm 2015 không cho phép Tòa án nhân dân từ chối giải quyết những vụ việc dân sự không có pháp luật điều chỉnh. Do đó, để Tòa án giải quyết bất kỳ những vụ việc dân sự mà chưa có pháp luật qui định thì phải trao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật [có thể làm rõ nghĩa, có thể mở rộng đối tượng điều chỉnh của pháp luật, có thể giải thích một điều luật để áp dụng tương tự, có có thể giải thích nguyên tắc cơ bản của pháp luật để áp dụng vào tình huống cụ thể vv.. Tóm lại, những giải pháp nhằm hoàn thiện cách thức xác định quan hệ tranh chấp trong tố tụng dân sự, trong việc giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống TAND cần phải được thực hiện một cách đồng bộ.

By 123luat.com

Video liên quan

Chủ Đề