Cây chè phân bố ở đâu

4 NGUỒN GỐC CÂY CHÈ, PHÂN LOẠI VÀ SỰ PHÂN BỐ 1.1 Nguồn gốc cây chè Năm 1753, Carl Von Linnaeus, nhà thực vật học Thụy Điển nổi tiếng, lần đầu tiên trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu trên một số loại chè cổ ở Trung Quốc và định tên khoa học cây chè là Thea Sinensis rồi phân thành 2 loại: Thea bohea [chè đen] và Thea viridis [chè xanh]. Nhiều công trình nghiên cứu và khảo sát trước đây cho rằng: Nguồn gốc của cây chè là vùng cao nguyên Vân Nam – Trung Quốc, nơi có khí hậu ẩm ướt và ấm. Theo các tài liệu của Trung Quốc thì cách đây khoảng 4000 năm, người Trung Quốc đã biết dùng chè làm dược liệu và sau đó mới dùng để uống. Cũng theo các tài liệu này thì vùng biên giới Tây Bắc nước ta cũng nằm trong vùng nguyên sản của giống cây chè tự nhiên trên thế giới.Năm 1823, Robert Bruce, một học giả người Anh, lần đầu tiên phát hiện một số cây chè hoang dã trong dãy núi Sadiya ở vùng Atxam [Ấn Độ] cao tới 17 đến 20m, thuộc loài thân gỗ lớn, khác hẳn cây chè thân bụi của Linaeus thu thập ở vùng Trung Quốc nói trên. Tiếp sau đó các nhà học giả Anh như Samuel Bildon [1878], John H.Blake [1903], E.A.Brown và 5 Ibbetson [1912] đưa ra thuyết: Ấn Độ là vùng nguyên sản của cây chè trên thế giới, vì trong kho tàng cổ thụ Trung Quốc không có ghi nhận gì về các cây chè cổ thụ, trong đất nước Trung Quốc chưa tìm thấy những cây chè cổ thụ lớn như ở Ấn Độ, và giống chè Trung Quốc cũng như Nhật Bản hiện nay là nhập từ Ấn Độ. Năm 1918, Cohen Stuart [Java], một nhà phân loại thực vật Hà Lan đã đi thu thập mẫu tiêu bản chè tại Vân Nam, Bắc Việt Nam và Bắc Mianma. Kết quả đã tìm thấy những cây chè thân gỗ lớn ở khu vực miền núi phía Nam và phía Tây Vân Nam. Tuy có những quan điểm khác nhau về nguồn gốc cây chè, nhưng vùng phân bố chè nguyên sản và vùng chè dại nằm đều nằm ở khu vực núi cao, có điều kiện sinh thái lý tưởng. Thực vậy, vùng Vân Nam [Trung Quốc] hay vùng Atxam [Ấn Độ] đều có độ cao trên 1500m so với mặt nước biển. Còn tại Việt Nam cũng đã tìm thấy chè dại tại Suối Giàng [Yên Bái], Thông Nguyên, Cao Bồ [Hà Giang], Tam Đảo [Vĩnh Phúc]. Từ những nghiên cứu trên có thể đi đến kết luận là cây chè có nguồn gốc từ Châu Á. 1.2 Phân loại Để phân loại cây chè, người ta dựa trên các cơ sở: 6 Cơ quan sinh dưỡng: loại thân bụi hoặc thân gỗ, hình dạng của tán, hình dạng và kích thước của loại lá, số đôi gân lá... Cơ quan sinh trưởng: độ lớn cánh hoa, số lượng đài hoa, vị trí phân nhánh của đầu và nhị cái. Đặc điểm sinh hoá: chủ yếu dựa vào hàm lượng tanin. Trong những thập kỷ qua đã có nhiều tác giả phân loại về chè, đó là Cohen Stuart 1916, Wight và Barua 1939, Kitamura 1950m Sealy 1958. Trong đó cách phân loại Cohen Stuart được nhiều người biết đến và sử dụng. Theo nhà thực vật học người Hà Lan Cohen Stuart 1919, tác giả dựa vào đặc điểm hình thái, sinh lý, không gian phân bố, đối chiếu với nguồn gốc để chia chè thành 4 loại , đó là: − Chè Trung Quốc lá nhỏ: thuộc loại cây bụi, mọc chậm có nhiều thân mọc từ dưới lên, lá nhỏ cứng, đọt chè nhỏ, diện tích lá bé thích hợp với những loại chè đòi hỏi ngoại hình đẹp. − Chè Trung Quốc lá to: thuộc loại thân gỗ nhỏ, lá trung bình, năng suất khá, đọt chè từ nhỏ đến trung bình được sử dụng cho chế biến chè xanh và chè đen. 7 − Chè Shan: thuộc loại thân gỗ vừa, lá to, đọt dài, có nhiều lông tuyết vì thế khi chế biến cần lưu ý cường độ và thời gian vò để giữ lại tối đa tuyết của đọt tạo sự hấp dẫn tự nhiên cho sản phẩm. − Chè Ấn Độ: thuộc loại thân gỗ lớn, lá to, bóng láng, sinh trưởng mạnh ở những vùng nhiệt đới, đọt to, hàm lượng tanin cao thích hơp cho chế biến chè đen theo phương pháp truyền thống Orthodox và phương pháp CTC [Crushing – Tearing – Curling]. 1.3 Sự phân bố của cây chè Cũng như nhiều loại cây trồng khác, cây chè phân bố trên phạm vi khá rộng. Đầu tiên chè chỉ sống hoang dại trên các Cao Nguyên vùng Đông Nam Châu Á. Về sau, người ta đã tìm hiểu được đặc tính và công dụng của nó nên đã đưa về trồng trên các nương, đồi, vườn tược. Đến nay, ngành trồng chè đã có gần 5.000 năm lịch sử và đã được trồng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, từ 30 độ vĩ nam [Natan – Nam Phi] đến 45 độ vĩ bắc [Gruzia – Liên Xô]. Nhưng chè tốt nhất và được trồng nhiều nhất là từ 32 độ vĩ bắc đến 6 độ vĩ nam và hình thành 3 vùng lớn: vùng ôn đới, vùng á nhiệt đới và vùng nhiệt đới. Trong đó, vùng nhiệt đới chè sinh trưởng tốt nhất và có nhiều triển vọng cho sản lượng cao 8 nhất. Từ những vùng chè nguyên sản, chè được nhân rộng ra các vùng có điều kiện tự nhiên rất khác nhau: Chè được trồng ở Nhật Bản năm 805 – 814, Indonesia 1684, Liên Xô 1833, Srilanca 1837 – 1840, Ấn Độ 1834 – 1840 và Tasmania [Châu Đại Dương] năm 1940. Ở Việt Nam, cây chè có từ lâu đời trên các vùng núi cao phía Tây Bắc với những cây chè nguyên thủy ở Suối Giàng [Yên Bái], Thông Nguyên, Cao Bồ, Lũng Phìn [Hà Giang], Chồ Lồng, Tả Xùa [Sơn La], Tam Đảo [Vĩnh Phúc]. Cây chè được trồng với quy mô đồn điền đầu tiên ở Phú Thọ vào năm 1890. Sau đó,chè được phân bố trên phạm vi cả nước, trải dài trên 15 vĩ độ bắc, đã hình thành những vùng chè tập trung như: Vùng Tây Bắc [ gồm Sơn La, Lai Châu], Vùng Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn [gồm Hà Giang, Tuyên Quang, yên Bái, Lào Cai], vùng Trung du Bắc Bộ [gồm Phú Thọ, Nam Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Bắc Cạn, Bắc Giang, Thái Nguyên], vùng Bắc Trung Bộ [gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh], vùng Tây Nguyên [gồm Gia Lai, Kontum, Lâm Đồng]. Sự hình thành các vùng chè tập trung trên mang tính tự nhiên ,song còn hạn chế trong phân vùng phát triển, chưa khai thác tốt được các lợi thế về tự nhiên của từng vùng, trong đó vùng Trung

Bằng cách đăng ký, bạn đồng ý với Điều khoản sử dụng và Chính sách Bảo mật của chúng tôi.

"Chè [thực vật]" đổi hướng tới đây. Đối với các cách dùng khác, xem Chè.

Đối với các định nghĩa khác, xem Trà [định hướng].

Chè [hay trà, tên khoa học: Camellia sinensis] là loài cây mà lá và chồi được sử dụng để sản xuất trà [đừng nhầm với cây hoa trà]. Tên gọi sinensis có nghĩa là "Trung Quốc" trong tiếng Latinh. Các danh pháp khoa học cũ còn có Thea boheaThea viridis.

Chè [Trà]

Lá chè Camellia sinensis

Phân loại khoa họcGiới [regnum]Plantae[không phân hạng]Angiospermae[không phân hạng]EudicotsBộ [ordo]EricalesNhánh [clade]CamelliaHọ [familia]TheaceaeChi [genus]CamelliaLoài [species]C. sinensisDanh pháp hai phầnCamellia sinensis
[L.] Kuntze

Trà xanh, trà ô long và trà đen tất cả đều được chế biến từ loài này, nhưng ở các mức độ oxy hóa khác nhau.

 

Camellia sinensis

Camellia sinensis xuất xứ từ Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á, nhưng ngày nay nó được trồng phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Nó là loại cây xanh lưu niên mọc thành bụi hoặc các cây nhỏ, thông thường được xén tỉa để thấp hơn 2 mét [6 ft] khi được trồng để lấy lá. Nó có rễ cái dài. Hoa chè màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5–4 cm, với 7 - 8 cánh hoa. Hạt của nó có thể ép để lấy dầu.

Hạt của Camellia sinensis và Camellia oleifera được ép lấy tinh dầu trà, gia vị ngọt và dầu ăn không được trộn lẫn với tinh dầu trà. Tinh dầu thường được sử dụng làm thuốc và mỹ phẩm, có khởi nguồn từ lá của nhiều thực vật khác.

Lá của chè dài từ 4–15 cm và rộng khoảng 2–5 cm. Lá tươi chứa khoảng 4% caffein. Lá non có sắc xanh lục nhạt được thu hoạch để sản xuất trà. Ở thời đoạn đó, mặt dưới lá có lông tơ ngắn màu trắng. Lá già thì chuyển sang màu lục sẫm. Tùy lứa tuổi mà lá chè có thể dùng làm thành phẩm chè khác nhau vì thành phần hóa học trong lá khác nhau. Thông thường, chỉ có lá chồi và 2 đến 3 lá mới mọc gần thời gian đó được thu hoạch để chế biến. Việc thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn mỗi 1 đến 2 tuần.

Chè thường được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi có lượng mưa tối thiểu là 127 cm. [50 inches] mỗi năm. Khí hậu ẩm ướt và nhiều nắng ấm là hai yếu tố chính. Ngoài khu vực lý tưởng kể trên, cây chè có thể sống suốt từ đường xích đạo lên đến miền nam nước Anh như Cornwall.[1] Chè ngon thường mọc ở cao độ trên 1.500 mét [4.900 feet] để cây chè phát triển chậm, tích tụ nhiều hương vị đậm đà.

Việt Nam

 

Những cây chè [trà] Shan tuyết cổ thụ

 

Một đồi chè [trà] ở Phú Thọ

Cây chè tại Việt Nam đến giữa thế kỷ XX được trồng khắp miền quê ngoài Bắc và Trung [phương ngữ tại đây thường gọi là chè], diện tích lớn nhất ở hai tỉnh Phú Thọ và Quảng Nam.[2] Loại này thân mọc cao, lá lớn và dày, có thể hái về vò nát để nấu uống tươi gọi là chè xanh. Loại thứ hai là chè đồn điền du nhập từ phương Tây, cây thấp, lá nhỏ, thường phải ủ rồi mới nấu nước. Hạng nhất là chè búp [hoặc chè nõn tôm], có khi gọi văn vẻ là "chè bạch mao" hay "chè bạch tuyết" nếu búp có lông tơ trắng ở đầu ngọn. Hạng nhì là hai lá chè kế [còn có thể phân chia "một tôm một lá" tức lấy búp và một lá kế, và "một tôm hai lá" tức lấy búp và hai lá tiếp theo]. Lá thứ tư, thứ năm là chè hạng ba. Những lá dưới nữa thì dùng làm chè mạn, rẻ hơn cả.[3]

Đồn điền cây chè thì mãi đến năm 1924 thời Pháp thuộc mới bắt đầu hoạt động ở vùng Cao nguyên Trung Kỳ gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Darlac và Đồng Nai Thượng.[4] Sang thập niên 1930, chè được đem trồng một cách quy mô trên cao nguyên vùng B'lao và Djiring và vùng này sau chiếm địa vị là vựa chè.[5]

Tính đến năm 1960, Việt Nam xuất cảng 2.000 tấn chè mỗi năm.[3] Đến năm 2007 thì sản lượng chè của Việt Nam đã vượt một triệu tấn, canh tác trên 125.000 hecta.[5]

Vào đầu năm 2016, thị trường lớn nhất mua chè Việt Nam là Pakistan chiếm khoảng 1/3 thị phần. Việt Nam cũng là nước xuất cảng chè đứng thứ năm trên thế giới. Tuy nhiên giá bán thấp hơn so với các nước khác vì phẩm chất kém, chỉ đạt 60-70% giá thị trường quốc tế.[6]

Ấn Độ

Phần lớn chè được sản xuất tại Ấn Độ gọi là chè Assam [đôi khi nó được gọi là C. sinensis assamica hay C. assamica]. Đây là loại cây nhỏ [thân đơn], lá to bản. Trong thiên nhiên, chè Assam có thể mọc cao đến 6 - 20 mét [20–65 ft]; nhưng khi canh tác thì cây được xén kỹ chỉ còn cao nhỉnh hơn thắt lưng người. Ở những vùng đất trũng, cây chè cần độ ẩm cao [mưa nhiều] nhưng đất trồng phải ráo nước, không được úng. Những cây chè thuần hóa không chịu được nhiệt độ quá cao.

Cây chè Assam được phát hiện năm 1823 [mặc dù đã được người dân địa phương sử dụng làm đồ uống từ lâu]. Chè Assam sau đó được dùng là một trong hai giống chè gốc. Tất cả các cây chè Assam và phần lớn chè Ceylon [Tích Lan, nay là Sri Lanka] có nguồn gốc từ giống cây này. Chè Assam có hương vị ngọt khi pha nước uống, không giống như vị các loại chè Trung Hoa.

Campuchia

Chè Campuchia đôi khi được gọi là C. sinensis parvifolia. Lá chè này về kích thước trung bình, giữa lá chè Assam và lá chè Trung Quốc; nó là một loại cây nhỏ, dạng bụi. Đôi khi người ta coi biến thể này là sản phẩm lai ghép của chè Assam và Trung Quốc.

Trung Quốc

Chè Trung Quốc [đôi khi gọi là C. sinensis sinensis] là loài cây lá nhỏ, nhiều thân mọc thành bụi rậm cao tới 3 mét. Đây là loại chè đầu tiên được ghi nhận với lịch sử trong văn tịch hơn 3000 năm, chè này được dùng sản xuất nhiều loại chè nổi tiếng.

Lá chè là thức ăn của nhiều loài động vật ăn cỏ, như các loài sâu bướm thuộc họ Peribatodes rhomboidaria, Geometridae.

Lá chè được dùng trong Đông y để trị hen phế quản [như một loại thuốc trị hen suyễn], nhiệt miệng, đau thắt ngực, bệnh tim mạch vành và bệnh mạch máu ngoài.

Ngày nay, trà xanh phổ biến khắp nơi, là thức uống rất có lợi cho sức khỏe, góp phần ngừa ung thư, giảm cholesterol, diệt khuẩn và giảm cân.[7] Trà chứa lượng lớn catechin, một chất chống oxy hóa. Trong các hoạt tính, [-]-catechin từ C. sinensis làm kích thích PPARgamma, thụ quan hạt nhân, là mục tiêu dược lý hiện hành cho điều trị đái tháo đường loại 2.[8]

Tuy nhiên, ngày nay trà cũng có tác dụng xấu đến sức khỏe, như chứa caffein vượt mức cho phép, nhiều loại trà còn chứa flo và oxalat.

  •  

    Mặt cắt thân cây chè

  •  

    Hoa chè

  •  

    Quả cây chè xanh

  •  

    Quả chè để khô

  •  

    Nước chè xanh, lá chè xanh vo vào ấm đun sôi lấy nước uống

  • Dầu trà được chiết từ Melaleuca alternifolia có nguồn gốc ở Úc và không có liên quan gì đến cây trà [chè] nói trong bài này.
  • Cây trà là tên gọi đôi khi được áp dụng cho một số các loài thực vật khác không liên quan gì đến cây trà [chè] thực thụ này.

  1. ^ “Tea”, Gardening, Telegraph Online, ngày 17 tháng 9 năm 2005, Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 5 năm 2008, truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2021.
  2. ^ Guinard, A. "Situation de la culture en Indochine". Archives dé recherches agronomiques et pastorales au Viêt-Nam: La culture du thé en Indochine No 20. Saigon: Centre national de recherches scientifiques et techniques, 1953. tr 168
  3. ^ a b Phan Xuân Hòa. Việt Nam gấm vóc. Sài Gòn:Institut de l'Asie du Sud-est, 289
  4. ^ Pierre Brocheux và Daniel Hémery. Indochina. Berkeley, CA: University of California Press. 2009. tr 116-180
  5. ^ a b Nghề Làm Trà Ơ Blao[liên kết hỏng]
  6. ^ "Vì sao giá chè xuất khẩu chỉ rẻ bằng một nửa giá thế giới?"
  7. ^ “Quick Sprints can Cut Abdominal Fat in Men”. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  8. ^ Wang L, Waltenberger B, Pferschy-Wenzig EM, Blunder M, Liu X, Malainer C, Blazevic T, Schwaiger S, Rollinger JM, Heiss EH, Schuster D, Kopp B, Bauer R, Stuppner H, Dirsch VM, Atanasov AG. Natural product agonists of peroxisome proliferator-activated receptor gamma [PPARγ]: a review. Biochem Pharmacol. 2014 Jul 29. pii: S0006-2952[14]00424-9. doi: 10.1016/j.bcp.2014.07.018. PubMed PMID 25083916.

Wikispecies có thông tin sinh học về Chè [thực vật]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Chè [thực vật].

[tiếng Anh]

  • Chè [thực vật] tại trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ [NCBI].
  • Chè [thực vật] 506801 tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp [ITIS].
  • Chè [thực vật] tại Encyclopedia of Life
  • Camellia sinensis Lưu trữ 2009-01-20 tại Wayback Machine trên trang GRIN
  • Camellia sinensis from Purdue University
  • Camellia sinensis Classification Lưu trữ 2016-01-17 tại Wayback Machine from Toklai Tea Research Station, Jorhat, Assam.

[tiếng Việt]

  • Giải mã bí ẩn chè xanh[liên kết hỏng] trên trang của Hiệp hội chè Việt Nam

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Chè_[thực_vật]&oldid=68540660”

Video liên quan

Chủ Đề