Cơ thể mà trong tế bào sinh dưỡng có bộ nst giảm đi 1 chiếc được gọi là:
Mức bội thể (đôi khi được gọi là bộ nhiễm sắc thể) là thuật ngữ trong di truyền học dùng để chỉ số lượng nhiễm sắc thể trong nhân của một tế bào hoặc của một mô hay của cả một cơ thể sinh vật.[1][2][3][4] Trong tiếng Anh, thuật ngữ có nội hàm trên là ploidy (IPA: /ˈplɔɪdi/).[2][5][6][7] Một bộ nhiễm sắc thể (ploidy) như thế có thể là đơn bội, lưỡng bội, đa bội hoặc dị bội,...[5][6][8] Trong các mô khác nhau của một cơ thể sinh vật có thể có nhiều bộ nhiễm sắc thể khác nhau về số lượng nhiễm sắc thể, chẳng hạn như ở người bình thường, hầu hết các tế bào và các mô trong cơ thể có 46 nhiễm sắc thể trong một tế bào, nhưng lại chỉ có 23 nhiễm sắc thể ở mỗi giao tử (trứng hay tinh trùng). Cách dùng trong ngôn ngữ:
Khi sử dụng trong ngôn ngữ, ta dùng "bộ nhiễm sắc thể x bội" với x là đơn, nhị hoặc một số Hán-Việt và dùng như cụm danh từ. Ví dụ: "tế bào có bộ nhiễm sắc thể tam bội", tức "tế bào có ba bộ nhiễm sắc thể đơn bội". "X bội" cũng được dùng như tính từ. Ví dụ Thuật ngữ "ploidy" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại πλόος (/-plóos/, nghĩa là "fold": lần) và -ειδής (/eidḗs/) từ εἶδος (/eîdos/, nghĩa là "form, likeness": dạng, giống như).[a][9][10] Nhà thực vật học người Ba Lan là Eduard Giorgburger đã đặt ra các thuật ngữ "haploid" (đơn bội) và "diploid" (lưỡng bội) vào năm 1905,[b] có thể là dựa trên ý tưởng của August Weismann trong lý thuyết dòng mầm.[13][14][15] Sau đó, hai thuật ngữ này đã được chuyển từ tiếng Đức thành tiếng Anh qua bản dịch cuốn sách của Giorgburger do William Henry Lang biên dịch vào năm 1908.[16] Nghĩa chính của từ Hy Lạp ᾰ̔πλόος (/haplóos/) là "đơn",[17] từ ἁ- (ha-, nghĩa là "một, giống nhau").[18] διπλόος (diplóos) có nghĩa là "song, hai lần". Do đó, diploid có nghĩa đen là "song hình". Một bộ nhiễm sắc thể có thể gặp trong tự nhiên ở nhiều kiểu khác nhau, dựa vào số nhiễm sắc thể và nguồn gốc các nhiễm sắc thể trong tế bào. Bộ đơn bộiSo sánh về sinh sản hữu tính ở sinh vật đơn bội và sinh vật lưỡng bội. 1: Sinh vật đơn bội: bên trái; sinh vật lưỡng bội: bên phải. 2 và 3: Trứng mang nhiễm sắc thể tím có gen trội, tinh trùng mang gen lặn (màu xanh) phát sinh qua nguyên phân. 4 và 5: Trứng và tinh trùng tương tự như 3 và 4, nhưng phát sinh qua giảm phân, nên giảm một nửa số nhiễm sắc thể trong các tế bào mầm 2n.6: Trạng thái 2n của sinh vật đơn bội. 7: Hợp tử 2n hình thành (như 6). 8: Tế bào 2n tạo ra các bào tử đơn bội, khôi phục lại thể giao tử. Vì chỉ có n nhiễm sắc thể, nên gen trội (tím) và gen lặn (xanh) cùng biểu hiện ở kiểu hình.9:) Trong khi đó, hợp tử 2n nguyên phân bào tạo ra một cơ thể đa bào, thì ở các tế bào chỉ có gen trội biểu hiện ra kiểu hình (màu tím), còn gen lặn thì không (màu xanh không biểu hiện). Số nhiễm sắc thể trong bộ đơn bội thường được kí hiệu là n (gốc từ "number").[1] Thuật ngữ đơn bội (haploid hay monoploid) được sử dụng với các nội hàm khác nhau, nhưng có liên quan với nhau.
Bộ lưỡng bộiBộ lưỡng bội (diploid) có hai nhiễm sắc thể tương đồng ở mỗi cặp nhiễm sắc thể, trong đó một chiếc do bố truyền cho, còn chiếc kia kế thừa từ mẹ.[21] Chẳng hạn ở người bình thường, mỗi tế bào lưỡng bội có 46 nhiễm sắc thể (2n), trong đó có n = 23 chiếc nhận từ bố qua tinh trùng, còn n = 23 chiếc nữa nhận từ mẹ qua trứng. Ở mỗi Retroviruses có chứa hai bản sao bộ gen RNA của chúng trong mỗi hạt virus cũng được gọi là lưỡng bội; tương tự như vậy với HIV.[22] Bộ đa bộiBài chi tiết: Thể đa bội Bộ đa bội (polyploidy) là trạng thái mà tế bào hoặc mô hay cả cơ thể có số lượng nhiễm sắc thể là bội số của bộ nhiễm sắc thể cơ bản (đơn bội), nhưng bội số này lớn hơn 2; còn cơ thể có bộ đa bội gọi là thể đa bội.[1][4]
Các trường hợp khác
- bệnh nhân mắc hội chứng Đao có ba bản sao của nhiễm sắc thể 21 (3.21), trong khi người bình thường chỉ có hai chiếc. - bệnh nhân mắc hội chứng Tơcnơ thiếu một nhiễm sắc thể giới tính X (X0), trong khi nữ giới bình thường là XX. - bệnh nhân mắc hội chứng Klaiphentơ thường đặc trưng bởi số nhiễm sắc thể giới tính thừa ra là XXY, XXXY, trong khi nam giới bình thường là XY. Trong trường hợp dị bội (aneuploid) như vậy hoặc tương tự như vậy thì được đặt tên với hậu tố -somy (chứ không phải -ploidy), ví dụ thể 3.21 gọi là trisomy (thể ba), còn thể X0 gọi là monosomy (thể một).
Khoai tây người ta thường ăn (Solanum tuberosum) là một thể tứ bội, mang bốn bộ nhiễm sắc thể (n = 4) với số NST đơn bội (x) = 12. Trong quá trình thụ tinh tạo thành hợp tử sẽ nảy mầm thành cây khoa tây này, thì mỗi hợp tử khoai tây nhận được hai bộ 12 nhiễm sắc thể của bố (cây cung cấp hạt phấn) và hai bộ 12 nhiễm sắc thể từ mẹ (cây có noãn được thụ phấn). Bốn bộ kết hợp cung cấp đầy đủ gồm 48 nhiễm sắc thể. Do đó, bộ đơn bội là 24.
a) So sánh từ nguyên của tuple, từ tiếng Latinh có nghĩa là "-fold". b) Nguyên văn bằng tiếng Đức như sau: "Schließlich wäre es vielleicht erwünscht, wenn den Bezeichnungen Gametophyt und Sporophyt, die sich allein nur auf Pflanzen mit einfacher und mit doppelter Chromosomenzahl anwenden lassen, solche zur Seite gestellt würden, welche auch für das Tierreich passen. Ich erlaube mir zu diesem Zwecke die Worte Haploid und Diploid, bezw. haploidische und diploidische Generation vorzuschlagen" "Cuối cùng, có lẽ sẽ là mong muốn nếu các thuật ngữ giao tử và thể bào tử, vốn chỉ có thể áp dụng cho thực vật có số lượng nhiễm sắc thể đơn và kép, được loại bỏ bằng các thuật ngữ cũng đề cập đến Vì mục đích này, tôi tự do đề xuất các từ đơn bội và lưỡng bội, tương ứng là thế hệ đơn bội và lưỡng bội"
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Mức_bội_thể&oldid=68897991” |