Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của các ngân hàng thương mại là từ đầu

Nguồn vốn của Nhân Hàng Thương Mại bao gồm 5 loại nguồn vốn như sau

  1. Vốn chủ sở hữu – Vốn cổ phần
  2. Vốn đi vay
  3. Vốn huy động
  4. Vốn tiếp nhận
  5. Vốn khác

Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại Vốn điều lệ Vốn điều lệ là số vốn ban đầu được ghi trong điều lệ hoạt động của các Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại và số vốn điều lệ tối thiểu phải bằng vốn pháp định do chính phủ qui định [vốn pháp định là mức vốn do ngân hàng Nhà nước công bố vào đầu mỗi năm tài chính]. Vốn điều lệ là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một ngân hàng. Nguồn hình thành vốn điều lệ phụ thuộc vào tính chất sở hữu của từng loại hình ngân hàng, chẳng hạn như Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại quốc doanh do ngân sách Nhà nước cấp, các Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại cổ phần do các cổ đông đóng góp, ngân hàng liên doanh thì do các bên liên doanh đóng góp… Vốn điều lệ qui định cho một ngân hàng nhiều hay ít tùy thuộc vào qui mô và phạm vi hoạt động. Vốn điều lệ sẽ được bổ sung và tăng dần dưới các hình thức: huy động vốn từ các cổ đông, ngân sách cấp, lợi nhuận bổ sung… Ngoài vốn điều lệ, Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại còn có các quỹ dự trữ ngân hàng [ đây là quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng ], quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi… Các quỹ dự trữ của ngân hàng còn được coi là nguồn tự có và được bổ sung hàng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Vốn huy động Một số nguồn vốn huy động chủ yếu của ngân hàng thương mại: tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm, vốn huy động từ bằng chứng từ có giá. Tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế Các tổ chức kinh tế [TCKT] trong quá trình hoạt động muốn thực hiện giao dịch với Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại nào đòi hỏi họ phải mở tài khoản tại Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại đó. Việc mở tài khoản này giúp TCKT bảo quản an toàn tiền vốn đồng thời qua đó TCKT có thể nhận được các dịch vụ tài chính từ Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại. Về phía Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại, việc mở và gửi tiền vào tài khoản của các TCKT giúp cho Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại có thể sử dụng được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để bổ sung nguồn vốn tín dụng. Tiền gửi thanh toán của khách hàng bao gồm tiền gửi thanh toán không kỳ hạn và tiền gửi thanh toán có kỳ hạn. – Tiền gửi thanh toán không kỳ hạn: là hình thức tiền gửi mà khách hàng có thể rút vốn ra bất kỳ lúc nào không cần báo trước cho ngân hàng. Mục đích của loại tiền gửi này là nhằm đảm bảo an toàn về tài sản, thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như các khoản thanh toán trong tiêu dùng của cá nhân đồng thời hạn chế được chi phí tổ chức thanh toán, bảo quản tiền và vận chuyển tiền. Đối với bộ phận vốn này không ổn định nên ngân hàng phải thường dự trữ lại với số lượng rất lớn để đáp ứng yêu cầu của khách hàng do đó ngân hàng thường áp dụng lãi suất thấp cho loại tiền gửi này. – Tiền gửi thanh toán theo kỳ hạn: là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng có sự thỏa thuận với ngân hàng để chọn một loại thời hạn gửi tiền thích hợp. Theo nguyên tắc, đối với loại tiền gửi này, người gửi tiền chỉ được rút ra khi đến hạn. Tuy nhiên, trên thực tế do áp lực cạnh tranh mà ngân hàng cho phép khách hàng rút trước kỳ hạn. Trong trường hợp này, người gửi không được hưởng lãi như tiền gửi có kỳ hạn mà sẽ được áp dụng với lãi suất không kỳ hạn nếu rút ra truớc khi đáo hạn. Đây là nguồn vốn rất ổn định vì ngân hàng biết trước thời điểm mà khách hàng sẽ rút tiền ra nên ngân hàng thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu gởi tiền của khách hàng. Tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động tiền gửi theo kiểu truyền thống của ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền gửi của cá nhân được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm, được xác nhận trên thẻ tiết kiệm, được hưởng lãi theo qui định của ngân hàng nhận gửi tiết kiệm và được bảo hiểm theo qui định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi. Mục đích của người gửi tiết kiệm là để hưởng lãi và tích lũy. Xét về tính chất kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm cũng được chia thành hai loại: – Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể gửi tiền, rút tiền theo yêu cầu mà không cần báo trước vào bất kỳ ngày làm việc nào của ngân hàng nhận gửi tiền. Do đó ngân hàng không chủ động được nguồn vốn nên loại tiền gửi này có lãi suất thấp. Khi gửi tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng sẽ được ngân hàng cấp một sổ tiền gửi tiết kiệm. Sổ tiền gửi tiết kiệm này sẽ phản ánh tất cả các giao dịch gửi tiền, rút tiền, tiền lãi được hưởng, số dư hiện có. – Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là tiền gửi tiết kiệm mà người gửi chỉ rút tiền sau một kỳ hạn gửi tiền nhất định theo thỏa thuận với ngân hàng nhận gửi tiết kiệm. Trường hợp người gửi tiền rút tiền trước hạn thì tùy theo sự thỏa thuận

giữa người gửi tiền và ngân hàng khi gửi mà người gửi tiền được hưởng theo lãi suất không kỳ hạn. Khi gửi tiền tiết kiệm có kỳ hạn thì ngân hàng cũng được ngân hàng cấp một sổ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.

Nguồn vốn huy động bằng chứng từ có giá Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn, trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa các tổ chức tín dụng và người mua. Ở Việt Nam hiện nay, khi các Nguồn vốn của Ngân Hàng Thương Mại cần huy động số vốn lớn trong thời gian ngắn thì ngân hàng có thể phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi. Vốn điều chuyển Vốn điều chuyển là nguồn vốn mà chi nhánh điều chuyển từ hội sở hay các chi nhánh khác trong cùng hệ thống khi nguồn vốn huy động không đủ để đáp ứng cho nhu cầu kinh doanh của ngân hàng. Vốn điều chuyển không thuộc bộ phận nguồn vốn của ngân hàng thương mại mà nó chỉ tồn tại ở các chi nhánh ngân hàng. Nguồn vốn điều chuyển có lãi suất cao hơn vốn huy động, chênh lệch với lãi suất cho vay theo biên độ không được vượt quá 0,3%. Các nguyên tắc quản lý tiền gửi của khách hàng: + Ngân hàng chỉ được thực hiện các khoản giao dịch trên tài khoản của khách hàng khi có lệnh của chủ tài khoản hoặc có sự uỷ nhiệm của chủ tài khoản. Ngoại trừ trường hợp khách hàng vi phạm luật chi trả và theo quy định của cơ quan có thẩm quyền thì Ngân hàng mới có quyền tự động trích các tài khoản tiền gửi của khách hàng để thực hiện các khoản thanh toán có liên quan. + Ngân hàng phải đảm bảo an toàn và bí mật cho chủ tài khoản. + Ngân hàng phải có trách nhiệm kiểm soát các giấy tờ thanh toán của khách hàng, các chứng từ thanh toán phải được lập theo đúng quy định. Ngân hàng kiểm tra con dấu, chữ ký của khách hàng, nếu không phù hợp thì Ngân hàng có thể từ chối thanh toán. + Khi có các nghiệp vụ liên quan đến tài khoản của khách hàng thì Ngân hàng phải kịp thời gửi giấy báo có cho khách hàng. Cuối tháng, Ngân hàng phải gửi bản sao tài khoản hoặc giấy báo số dư cho khách hàng. Vai trò của công tác huy động vốn Đối với các ngân hàng thương mại Huy động vốn là nghiệp vụ quan trọng không thể thiếu song hành với nghiệp vụ tín dụng trong ngân hàng thương mại. Đây là nghiệp vụ tạo vốn cho hầu hết các hoạt động của ngân hàng. Khi thành lập ngân hàng đã có vốn ban đầu, nhưng số ban đầu này đã ở dạng vật chất như trụ sở, công cụ, dụng cụ…Vì vậy, để đảm bảo chức năng cung cấp vốn cho nền kinh tế ngân hàng phải thu hút vốn từ bên ngoài. Đã từ lâu các ngân hàng thương mại đã biết khai thác nguồn vốn này. Do đây là nguồn vốn huy động chủ yếu nên thu hút càng nhiều vốn thì ngân hàng thương mại càng có khả năng đạt lợi nhuận cao hơn vì có vốn mạnh ngân hàng dễ dàng đẩy mạnh nghiệp vụ cho vay và mở rộng thêm các hoạt động sinh lời khác. Đối với nền kinh tế Thông qua việc huy động vốn mà các ngân hàng đã và đang thực hiện các dịch vụ trung gian trong nền kinh tế quốc dân, có huy động vốn thì nguồn vốn mới tăng lên. Do vậy, vốn đầu tư được mở rộng, hoạt động sản xuất kinh doanh được kích thích, sản phẩm xã hội tăng lên, từ đó mà đời sống nhân dân được cải thiện. Việc huy động vốn của ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế, thông qua con đường tín dụng nó tài trợ cho các hoạt động công thương nghiệp, nông lâm ngư nghiệp của cả nước.

Thực tế cho thấy dù các doanh nghiệp lớn mạnh cũng không thể có một lượng vốn lớn hơn tổng số tiền dự trữ của dân chúng. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ nhưng tập hợp lại sẽ trở thành một nguồn vốn lớn. Thông qua các hình thức huy đông vốn, phần lớn số vốn tích trữ tập trung qua hệ thống ngân hàng và đưa vào công cuộc đầu tư mang tính chất sản xuất tạo ra của cải cho xã hội. Mặt khác, nhờ vào việc huy động vốn ngân hàng thương mại mới làm tốt chức năng trung gian tín dụng điều hòa tiền tệ từ nơi tạm thời thừa đến nơi tạm thời thiếu, có như vậy người dân mới được cấp tín dụng, mới có khả năng trang bị đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Các tìm kiếm liên quan đến nghiep vu ngan hang thuong mai

bai tap nghiep vu ngan hang thuong mai,tài liệu nghiệp vụ ngân hàng thương mại,trac nghiem nghiep vu ngan hang thuong mai,de thi nghiep vu ngan hang thuong mai,sach nghiep vu ngan hang thuong mai, nghiep vu ngan hang thuong mai download, tai lieu ngan hang thuong mai, nghiệp vụ ngân hàng thương mại nguyễn minh kiều

0.000000 0.000000

Bảng tổng kết tài sản của NHTM phản ánh ba lĩnh vực nghiệp vụ cơ bản là: Huy động vốn, Sử dụng vốn và Nghiệp vụ môi giới trung gian.

Đây là nghiệp vụ khởi đầu, tạo điều kiện cho mọi hoạt động của NHTM. Khi một NHTM cần vốn cho hoạt động kinh doanh của mình thì có thể huy động ở một số nguồn chính như : Nguồn từ chủ sở hữu, Nguồn tiền gửi, Nguồn vay mượn và một số nguồn khác.

* Huy động từ chủ sở hữu:

Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ sở hữu đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh được thể hiện ở dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn lại. Nó có vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho các hoạt động mở rộng quy mô của các NHTM [ liên doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,...]. Các NHTM thường huy động nguồn này thông qua nghiệp vụ phát hành cổ phiếu, trái phiếu được chuyển đổi thành cổ phiếu, nhận vốn cấp phát của Ngân sách Nhà nước,... Nhìn chung việc huy động dưới hình thức nào là do tính chất sở hữu của NHTM quyết định.

* Huy động từ tiền gửi:

Nguồn vốn từ chủ sở hữu thường có tỷ lệ nhỏ so với số tiền mà NHTM sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Vì vậy phần lớn là NHTM phải huy động từ nguồn tiền gửi. Đặc điểm cơ bản của nguồn vốn này là NHTM chỉ được quyền sử dụng nó trong một thời gian nhất định còn quyền sở hữu nó thuộc về những người gửi tiền. Dựa vào tính khả dụng của vốn thì NHTM có thể huy động dưới các hình thức sau:

-Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi hoàn toàn theo mục đích khả dụng. Mục đích của khách là muốn sử dụng các tiện ích của NHTM cung ứng. NHTM có nhiệm vụ phải chi trả bất cứ lúc nào mà khách hàng yêu cầu.

- Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự tham thoả thuận về thời gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Trong thời gian này ngân hàng có quyền chủ động sử dụng tiền do khách hàng ký gửi. Nếu khách hàng muốn rút tiền trước hạn phải được sự đồng ý của ngân hàng.

- Tiền gửi tiết kiệm: Đây là một bộ phận thu thập bằng tiền của các cá nhân tạm thời nhàn rỗi được gửi vào NHTM dưới nhiều hình thức: Tiết kiệm không kỳ hạn, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm mua nhà,... Với mục đích chủ yếu là tiết kiệm và sinh lời.

* Nguồn vay mượn:

Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi trả của khách hàng, các NHTM có thể sử dụng nghiệp vụ đi vay ở Ngân hàng trung ương, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài,... Vốn đi vay thông thường chiếm tỷ trọng không lớn trong kết cấu nguồn vốn. Tuy nhiên, nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để đảm bảo cho Ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường.

* Huy động từ các nguồn

Video liên quan

Chủ Đề