Nhà văn Nam Cao chuyển viết về đối tượng nào sau đây

“Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lý, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người” (Nguyễn Minh Châu)

Nhà văn Nam Cao chuyển viết về đối tượng nào sau đây

Nam Cao, một trong những nhà văn nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam, người đã viết vào nền văn học ta những dấu ấn không thể xóa mờ. Tồn tại ngay trong lớp bụi mờ của thời gian đang phủ lên dòng chảy văn học. Các tác phẩm của Nam Cao, trở thành huyền thoại với tất cả những ai yêu văn chương, có những hình tượng câu chuyện đã trở thành kinh điển, ăn sâu vào nếp sống nếp nghĩ của người dân. Nam cao có phong cách nghệ thuật vô cùng độc đáo, tạo ra được tiếng ca riêng biệt giữa một rừng cây ngút ngàn.

Phong cách nghệ thuật của Nam Cao trước năm 1945

* Ám ảnh về cái đói, cái ăn, và những tấn bi kịch của con người

Truyện ngắn của Nam Cao là sự phức hợp giữa bi và hài, trữ tình và triết lí mà cán cân nghiêng hẳn về phần bi. Nam Cao hiểu đời rất rõ, ngôn từ của ông được chắt ra từ những phận đời bần cùng nhất trong xã hội. Nam Cao được coi là đại diện của văn học hiện thực phê phán Việt Nam trong giai đoạn cuối. Ông được coi là người đã đặt những mảng màu cuối cùng hoàn chỉnh bức tranh của văn học hiện thực cả về mặt phản ánh xã hội cũng như khả năng biểu hiện nghệ thuật.

Dầu không phải là nhà cách tân truyện ngắn, chỉ là người bồi đắp cho thể loại này, nhưng sự bồi đắp ấy phong phú đến nỗi, cho đến ông, truyện ngắn giàu có thêm rất nhiều về cách thăm dò những chiều sâu mới, khẳng định thêm sự hàm súc của nó. Nhà văn Nam Cao ám ảnh đến cực độ với sự tha hóa trong bản chất của con người. Ông đẩy bản thân nhân vật vào tận cùng của sự bi kịch, của sự tha hóa không chút lưỡng lữ. Đó có thể là bi kịch lương thiện như Chí Phèo, con người sinh ra với số 0 tròn trĩnh, chết ngay trước cửa của sự lương thiện, người ta phải chết chỉ vì muốn làm người. Đó có thể là bi kịch được tạo nên bởi cái đói, vì một bữa ăn, người ta sẵn sàng đánh đổi cả danh dự nhân phẩm, và tính mạng. Hoặc của những người nghệ sĩ Hộ mang trong mình ước vọng cao đẹp, nhưng cơm áo ghì sát đất, ước mơ không cất nổi cánh mà tung bay.

Truyện ngắn của Nam Cao như những đợt sóng lớn cuốn phăng đi cái vẻ ngấm ngầm yên ả, giả tạo của một vùng làng quê yên bình. Truyện của Nam Cao có phần bế tắc. Mọi tác phẩm của ông trước năm 1945 đều rơi vào bi kịch không lối thoát. Các nhân vật sau khi chạm đến đỉnh điểm của bi kịch, hoặc chết để bảo vệ phần người còn sót lại, hoặc sống lay lắt với những ước mơ không thể thành hiện thực. Nam Cao tập trung hoàn toàn vào hiện thực, ngòi bút của ông lách rất sâu vào mảnh đất hiện thực, để mà phê phán, để mà cải tạo. Hiện thực trong sáng tác của Nam Cao là một hiện thực cụ thể, đặc thù: Xã hội Việt Nam vào những năm 40 đang xáo trộn, quằn quại trong chặng cuối của quá trình bần cùng hóa. Những cơn đói triền miên, những làng xóm tiêu điều xơ xác đến thảm hại, những số phận tàn lụi, sự tan tác rời rã của những mối quan hệ người, sự tuyệt vọng đổ vỡ của những cá nhân, sự tha hóa nhân cách và đặc biệt là mâu thuẫn giai cấp sâu sắc.

* Quan điểm về nghệ thuật

Nam Cao là một nhà văn triết lý, ông luôn lồng ghép những quan điểm của mình vào trong những tác phẩm của mình, thể hiện rõ nhất ở “Đời thừa” và “Ánh trăng”

“Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than”.

Với quan điểm nghệ thuật này, dường như là sự tôn thờ, nên truyện ngắn của Nam tàn ác, xấu xa của bọn thống trị như Bá Kiến đã khiến cho cuộc sống con người trở nên bi thảm, đau thương. Sẵn sàng cậy vào quyền thế của mình, Bá Biến chính là kẻ mà dồn đẩy một con người vốn có xuất phát điểm là lương thiện, chất phác như Chí Phèo đến chỗ cùng đường.

“Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, sẽ là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao và mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”.

Với quan điểm nghệ thuật này, nhà văn luôn dành cho những con người nhỏ bé, bần cùng trong xã hội sự trân quý đặc biệt, dẫu cho họ đã bị tha hóa về nhân phẩm, nhưng ông vẫn luôn cố gắng phát hiện những vẻ đẹp nhỏ bé nhất ẩn sâu trong tâm hồn họ. Đây là tinh thần nhân đạo trong những tác phẩm của Nam Cao.

Phong cách nghệ thuật của Nam Cao sau năm 1945

Sau năm 1945, Nam Cao cũng như những nhà văn khác, nghe theo lời kêu gọi của cách mạng, sử dụng ngòi bút để chiến đấu, xoay đòn chế độ, Nam Cao cũng từ bỏ ám ảnh về cái đói, sự tha hóa để thực hiện sứ mạng mới của văn học, ca ngợi cuộc chiến anh hùng, và kêu gọi mọi người tham gia cách mạng. Được thể hiện rất rõ trong tác phẩm “đôi mắt”. Tuy nhiên, chất triết lí vẫn không mất đi, nhà văn chú yếu nhiều vào điểm nhìn của xã hội, những mâu thuẫn giữa những kiểu người vẫn tri thức nhưng lại có cách nhìn trái nhau. Nhà văn tập trung vào lối sống thay vì bi kịch, những đối nghịch tồn tại ngay trong một tầng lớp. Tác phẩm cũng mở ra nhiều hướng đi và không còn bế tắc. Nam Cao vẫn thể hiện biệt tài của mình trong phân tích miêu tả tâm lý nhân vật. Nhìn chung, phong cách nghệ thuật của Nam Cao nghiêng về tính triết lý suy tưởng, đồng thời cũng không còn ghi rõ dấu ấn như trước 1945.

Văn học là cá nhân, đồng thời cũng là cộng đồng. Nam Cao dung hòa được hai vòng tròn ấy, vừa thể hiện được cái tôi, vừa thể hiện được tấm lòng nhân đạo của mình dành cho những con người nhỏ bé.

Thảo Nguyên

Ngày 13/01/2019 14:28:32, lượt xem: 9756

NHÀ VĂN NAM CAO

- Nam Cao (1915/1917- 1951) là một nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.


Cuộc đời:
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri - Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định). Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.


Những đặc điểm nổi bật về con người Nam Cao
- Nam Cao là một người tri thức trung thực vô ngần. Trước cách mạng, ông thừ nhận mình là người có nhiều khuyết điểm nhưng trong ông luôn cháy lên ngọn lửa lòng nhiệt tình của khát khao vươn tới cái thiện, luôn nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen. Bề ngoài, Nam Cao có vẻ lạnh lùng ít nói những đời sống nội tâm lại vô cùng phong phú, sôi nổi.

- Nam Cao là nhà văn có tấm lòng đôn hậu chan chứa yêu thương gắn bó sâu nặng với quê hương và những người dân nghèo khổ . Mỗi trang văn ông viết giống những những gửi gắm và trả ơn đối với quê hương và những con người nghèo khổ.
- Nam Cao là nhà văn luôn trăn trở day dứt về nghề văn trách nhiệm của người cầm bút. Mỗi quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Ông luôn đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật với những trăn trở: “ Sống đã rồi hãy viết”. Đó là nhận thức đúng đắn của một nhà văn chân chính theo trường phái – Nghệ thuật vị nhân sinh.


Cơ duyên đến với văn nghiệp:

Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn: “ Cảnh cuối cùng, Hai cái xác”. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời. - Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt. - Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.

- Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên tờ Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn...


Quan điểm nghệ thuật:

+ Quan điểm nghệ thuật "vị nhân sinh" +Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, nhắc đến Nam Cao là nhắc đến chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1946. + Thời gian đầu lúc mới cầm bút, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Dần dần nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động, ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ mà lên tiếng. + Đời thừa (1943); khẳng định một tác phẩm văn học phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện.

+Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - tác phẩm có giá trị của văn xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp - thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và "góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn".


Đề tài chính trong các tác phẩm của Nam Cao:

Trước cách mạng tháng 8
1. Người trí thức nghèo: Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà văn nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết mòn", phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp ngẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

2. Người nông dân nghèo: Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm; càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn; người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Caokhông hề bôi nhọ người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945.


Sau cách mạng tháng 8
1. "Đôi mắt", tác giả thể hiện một cái nhìn, một quan điểm, một sự thay đổi đối với thời cuộc, có đi nhiều tìm hiểu nhiều và quan sát nhiều mới có sự thay đổi cách nhìn cách nghĩ.

2. Sau cách mạng tháng 8 nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật
3. Những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ thuật cho giới nghệ sĩ đương thời
4. "Trăng sáng" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao: "Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than".


Phong cách nghệ thuật

Đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc đáo của Nam Cao. Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người trong con người". + Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. +Thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong đời sống hàng ngày của "Những truyện không muốn viết", tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật.

+ Giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát. Ông có phong cách nghệ thuật triết lý trữ tình sắc lạnh. Có nhà nghiên cứu đã ví ông với nhà văn Lỗ Tấn của Trung Quốc với phong cách Téc-mốt (Phiên âm tiếng Việt có nghĩa là cái phích nước) Và quan niệm nghệ thuật của ông là " Nghệ thuật vị nhân sinh (nghệ thuật phải viết về con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm " nghệ thuật vị nghệ thuật".


Tác phẩm

+ Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956)[3], ban đầu có tên Chết mòn - Nhà xuất bản Văn Nghệ. + Và bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.

Truyện ngắn


Trước cách mạng + Đón khách +Bài học quét nhà (1943) + Bảy bông lúa lép +Cái chết của con Mực + Cái mặt không chơi được + Chuyện buồn giữa đêm vui + Cười + Con mèo + Con mèo mắt ngọc + Chí Phèo (1941)

+ Đầu đường xó chợ...

 Những nhận định hay về tác phẩm

Những nhận định về con người Nam Cao: - “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc (...) thật ra mặt anh ta lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi” (Nhận xét của nhà văn Tô Hoài)

- "Con người Nam Cao mảnh khảnh,thư sinh,ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt"(Nguyễn Đình Thi)


- Nam Cao "biến mình thành kẹp chả dưới tay mình ,tự đem mình ra quat dưới than hồng "(Nguyễn Minh Châu) - "Nam Cao thường lấy bản thân mình ra để mà kiểm nghiệm"(Nguyễn Minh Châu) - "Năm năm cho một sự nghiệp không lẫn với ai,năm năm trung thành với hướng đi không nghiêng ngả... năm năm cày xới để tự biếm họa ,tự khẳng định,để có Nam Cao như hiện nay ta có"(GS Phong Lê)

- “Trong các trang truyện của Nam Cao ,trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người” (Nguyễn Minh Châu)

NOTE: Để nhận trọn bộ tài liệu phân tích, kiến thức các tác phẩm Ôn Thi Đại Học. Xin tham khảo BỘ SỔ TAY VĂN HỌC: http://bit.ly/2DymyE6