Như thế nào là tính khách quan của hệ thống pháp luật

Việc làm Luật - Pháp lý

Tính khách quan có khá nhiều ý nghĩa và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, để có cái nhìn tổng quan nhất về tính khách quan chúng ta cũng đi tìm hiểu một số ví dụ sau đây.

Ví dụ 1: Hài người đang tranh cãi về một vấn đề trong quá trình giải quyết một bài toán. Ai cũng có ý kiến của riềng mình, cũng có những cách làm và hướng đi riêng, và đặc biệt cả hai người này đều cho rằng phương pháp của mình là hoàn hảo nhất. Phương pháp của mình là đúng nhất và hay nhất. Nếu là người trong cuộc sẽ không đánh giá được ai hơn trong cuộc tranh cãi này, chính vì vậy mà bạn là người ngoài cuộc bạn cần được ra những nhận xét, đánh giá hai phương pháp kia một cách khách quan nhất, và điều quan trọng là bạn không được thiên vị cho ai, thì ý kiến nhận xét của bạn đưa ra mang tính khách quan.

Ý nghĩa: Qua ví dụ này chúng ta thấy được tính khách quan là một sự nhìn nhận sự việc, sự vật, nhận xét nhân vật không có sự thiên vị về bất kỳ ai, như vậy những lời nhận xét đó sẽ không ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của bạn hoặc một ai đó và tính sáng suốt này sẽ cho ra một quyết định thật sáng suốt.

Ví dụ 2: Bạn đưa ra một hướng giải pháp cho một vấn đề ngoài khả năng của bạn, ví dụ như việc bạn đưa ra giải pháp để xử lý một vấn đề ô nhiễm môi trường những vấn đề này thật sự là vấn đề nằm ngoài khả năng của một người thì đó là một sự thật khách quan.

Ý nghĩa: Khách quan là những sự vật, sự việc diễn ra ngoài ý muốn của bạn hay ngoài tầm kiểm soát của bạn thì đây cũng được gọi là tính khách quan trong việc đưa ra ý kiến cá nhân của mình.

 Một vài ví dụ về tính khách quan

Ví dụ 3: Một ví dụ mang tính chất so sánh giữa khả năng của con người với những khả năng khác, ví dụ như có những người có khả năng đặc biệt là bay này, chạy … nhưng những khả năng này nó chỉ hơn những người bình thường một chút, chứ không thể con người có thể bay như chim, hay chạy nhanh như người máy, hay đánh giá đúng với thực tế hiện tại thì còn được gọi là nhận định khách quan.

Tính khách quan là sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng không phụ thuộc con người. Nhận thức phải tôn trọng đến thực tế, nếu không tôn trọng thực tế thì khách quan sẽ mất đi.

Ví dụ 4: Có nhiều sự thật hiển nhiên là con người không phải là siêu nhân như người nhện, thần tiên được. Vì khoa học đã chứng minh những điều đó không tồn tại trên thế giới này.

Khách quan là cụm từ đòi hỏi việc nhận thức của con người phải dựa vào thực tế khách quan [tức là luôn tôn trọng sự thật không thể nhận định sai sự thật].

Tóm lại: Dưới đây là những tóm tắt đơn giản nhất về tính khách quan, phân tích cho các bạn hiểu rõ hơn về cụm từ “Tính khách quan”

Tính khách quan được hiểu là khi nhìn nhận một sự vật, sự việc 1 cách thực tế và không thiên vị với bất kỳ ai, như vậy sẽ không ảnh hưởng đến quyết định của một ai đó hoặc của chính bản thân bạn và sẽ cho ra một quyết định thật sáng suốt.

Khách quan là gì?

Tính khách quan là những sự việc, sự vật, hiện tượng diễn ra ngoài ý muốn của bạn và bạn không thể thay đổi được.

Khách quan là sự vận động và phát triển của mọi hiện tượng không phụ thuộc con người. Mọi sự vật hiện tượng xảy ra theo quy luật có sẵn, không chịu sự tác động hay nhận xét của một ai. Nhận thức phải tôn trọng đến thực tế, nếu không tôn trọng thực tế thì khách quan sẽ mất đi.

Tính khách quan là cụm từ đòi hỏi việc nhận thức của con người, của những người đưa ra lời nhận xét phải thực tế, mang tính khách quan và luôn tôn tại trong những sự thật hiện tượng không thể nhận định sai sự thật, hay nhận xét mang tính cá nhân được.

Việc làm Quản lý điều hành

Có thể nói tính chủ quan và tính khách quan khác nhau rất lớn, chúng ta có thể thấy được tính chủ quan được thể hiện khi nhìn nhận một vấn đề sự vật mang tính thiên vị, đánh giá theo chủ quan nhận xét cá nhân, hoặc không quyết đoán dẫn đến kết quả thiểu thực tế, kết quả thiên về sự yêu thích của bản thân người đánh giá. Dưới đây là một số ý nghĩa của chủ quan, nội dung sau sẽ giới thiệu cho bạn biết để bạn có được sự so sánh giữa hai yếu tố.

Ý nghĩa đầu tiên chúng ta đi phân tích chủ tức là bản thân, quan tức là cánh nhìn, hiểu theo một cách đơn giản chính của tính chủ quan đó chính là một cách nhìn phiến diện của một người, lấy quan điểm cá nhân để đánh giá sự vật sự việc thì được gọi là tính chủ quan.

Sự khác nhau giữa khách quan và chủ quan

Ví dụ 1: Tính chủ quan được thể hiện khi bạn tham gia điều khiển vào phương tiện giao thông vận tải, bạn nghĩ rằng tốc độ mình chạy là bình thường không có vấn đề gì, nhưng so với quy định chung thì tốc độ đó đang vượt quá tốc độ cho phép, đến khi gặp sự cố bạn sẽ không xử lý kịp và hậu quả khôn lường sẽ đến.

Ý nghĩa tiếp theo của tính chủ quan là dùng để chỉ một hành động nào đó của con người khi làm một việc nào đó mặc dù, khi bắt đầu chúng ta đều biết đến kết quả trước nhưng vấn làm việc sơ sài không chuyên tâm.

Ví dụ: Việc leo một đỉnh núi cao hiểm trở và khuyên bạn không nên thử sức. Nhưng bạn lại quá tự tin vào sức của mình, bạn nghĩ mình có thể chinh phục được đỉnh núi ấy, bạn tin vào khả năng của mình.Nhưng đó chính là suy nghĩ của bản thân bạn cho là đúng mà không quan tâm đến những sự góp ý của những người khác.

Việc làm Thẩm định - Giám thẩm định - Quản lý chất lượng

3. Các tính chất của tính khách quan

Tính khách quan dễ dàng nhận thấy nhất đó chính là độc lập, phát triển, tương đối và phong phú. Tính khách quan có tính độc lập vì nó không chịu sự tác động của bất cứ điều gì. Mọi sự vật, hiện tượng phát triển đều là khách quan.

Tuy nhiên một điều đặc biệt là tính khách quan chỉ mang tính chất tương đối vì tình khách quan nó cũng đánh giá trên một quan điểm của một người nào đó khi nhìn nhận một hiện tượng sự vật. Sự khách quan này cũng không phải dựa trên thước đo, vậy nên sự chính xác đến từng centimet của một sự vật, vậy nên tính khách quan cũng mang tính tương đối nhiều khi những nhận xét khách quan cũng chưa hẳn đã chính xác.

Tính khách quan của sự vật, thiên nhiên, hiện tượng, luôn phát triển không ngừng và chúng ta cũng như bất cứ điều gì cũng không thể tác động được đến nó, tùy vào sự nhìn nhận, đánh giá khác nhau của mỗi người khi đưa ra quan điểm của mình về hiện tượng sự vật sẽ có những sự khách quan khác nhau chứ không hề giống nhau vì vậy nó cực kỳ đa dạng và phong phú. Nhưng đều phải dựa trên những hiện tượng sự vật có thật diễn ra.

Từ những tính khách quan trên chúng ta hiểu được tính khách quan để từ đó có được những nhìn nhận đánh giá đúng với những suy nghĩ của bản thân.

Các tính chất của tính khách quan

Tính khách quan trong cuộc sống hàng ngày nó có tác dụng quan trọng ảnh hưởng đến mọi sự vật hiện tượng.Như chúng ta đã biết sự vật hiện tượng trong cuộc sống vừa có ưu điểm vừa có nhược điểm. Tính khách quan giúp con người, những người đưa ra đánh giá được sự vật, hiện tượng, sự việc, nhìn nhận được mọi việc xung quanh một cách tổng thể, trung thực và đúng với quy luật. chúng giúp cho cuộc sống được thoải mái, dễ dàng hơn, không bị ràng buộc bởi những suy nghĩ, đánh giá của người khác.

Khi bạn nhận xét một sự vật hiện tượng có tính khách quan thì nhìn chúng quan điểm của của người nhận xét sẽ tổng quan hơn, mang tính khách quan của hiện tượng và sự vật và giúp người nghe nhận thức đúng hơn về sự vật hiện tượng mà bớt ảo tưởng về mọi việc.

Tuy nhiên cuộc sống có muôn vàn sắc thái và biểu hiện hoàn cảnh khác nhau, vậy nên tính khách quan quá cũng khiến cho tình cảm. mối quan hệ giữa người với người không được gắn bó và thân thiết với nhau, tạo nên những khoảng cách về tình cảm, đôi khi tính khách quan còn làm người khác bị tổn thương, tạo nên những mối quan hệ giữa người với người không được gắn bó và thân thiết nữa. Mọi thứ trở nên rạng ròi hơn rất nhiều.

Mục lục bài viết

  • 1. Đặc điểm chung của pháp luật
  • 2. Lịch sử ra đời, phát triển của pháp luật
  • 3. Khái niệm pháp luật ?
  • 4. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật ?

1. Đặc điểm chung của pháp luật

Pháp luật có các đặc điểm cơ bản:

1] Là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung;

2] Thể hiện ý chí của nhà nước;

3] Do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện;

4] Được thể hiện dưới những hình thức nhất định: pháp luật tập quán, pháp luậy án lệ, văn bân quy phạm pháp luật;

5] Nhà nước có thể dùng biện pháp cưỡng chế để đảm bảo chọ pháp luật được thực hiện.

2. Lịch sử ra đời, phát triển của pháp luật

Pháp luật là một khái niệm phức tạp, trải qua các thời đại và ở các khu vực trên thế giới, những vấn đề như bản chất, nguồn gốc, vai trò, phạm vi điều chỉnh của pháp luật... được nhận thức một cách khác nhau. Ở Trung Quốc cổ đại, trường phái Nho gia [đại biểu là Khổng Tử] cho rằng, người cai trị chủ yếu dùng “lễ”, “nhạc” để sửa đổi tinh thần, tính nết con người nhằm duy trì trật tự xã hội. Theo quan niệm của các tác giả này, pháp luật được đồng nhất với “hình pháp” [sự trừng phạt], nó chỉ được đặt ra cho những người không hiểu và không theo được “lễ”. Sách Lễ kí viết:

“Lễ không đi xuống đến người dân thường. Hình pháp không đi lên đến giới đại phu’’.

Theo các nhà nho, “lễ” là một loại quy tắc xử sự vừa mang tính chất luân lí, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán, vừa mang tính chất chính trị, pháp lí mà những người cầm quyền phải tin theo, giữ gìn để thiết lập, duy trì quan hệ danh phận đẳng cấp trong xã hội. Cũng ở Trung Quốc thời kì này, trường phái Pháp gia [đại biểu là Hàn Phi Tử] quan niệm, pháp luật

“Lễ cái biên soạn thành sách đặt ở nơi công đường và nói rõ cùng trăm họ... cho nên bậc minh chúa nói pháp luật thì mọi kẻ hèn kém trong nước, không ai không nghe thấy”.

Mặc dù không trực diện đề cập nội hàm khái niệm pháp luật, tuy nhiên theo Hàn Phi Tử, pháp luật phải thành văn và phải được công khai cho mọi người đều biết. Hàn Phi Tử cho rằng, bản chất của con người là tham lam, ích kỉ [bản tính ác], vì vậy, để thiết lập trật tự xã hội, nắm giữ quyền lực dài lâu, người cầm quyền không thể dựa vào lễ, nhạc mà phải sử dụng luật pháp, luật pháp đó phải công khai, minh bạch để mọi người đều biết và tuân thủ nghiêm chỉnh.

Ờ phương Tây, quan niệm về pháp luật tương đối phức tạp, tuy nhiên, tựu trung lại có thể chia thành hai trường phái, trường phái pháp luật thực định và trường phái pháp luật tự nhiên.

Theo quan niệm của trường phái pháp luật thực định, pháp luật là những quy tắc do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự xã hội. Đó là những quy phạm cụ thể, hiện hữu, xác định, thể hiện rõ ràng, chúng được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội trong một phạm vi không gian xác định.

Theo quan niệm của trường phái pháp luật tự nhiên, pháp luật là những quy tắc tất yếu hình thành một cách tự nhiên trong đời sống của con người xuất phát từ bản chất của con người với tư cách là một bộ phận của giới tự nhiên, tương tự như việc con người đói thì ăn, khát thì uống, tìm kiếm thức ăn để duy trì sự tồn tại của mình, kết hôn, sinh con để duy trì nòi giống... Thứ pháp luật này không do nhà nước nào ban hành ra và bảo đảm thực hiện mà nó được hiểu như là tạo hóa đã ban tặng cho con người, nó cao hơn pháp luật do nhà nước ban hành, nó là vĩnh cửu và bất biến, không bị thay đổi ở mọi dân tộc và mọi thời đại. Pháp luật thực định do nhà nước ban hành ra và bảo đảm thực hiện phải dựa trên cơ sở của pháp luật tự nhiên, phải phù hợp, không được trái với pháp luật tự nhiên. Các luật gia theo phái này cho rằng các quyền tự nhiên của con người như quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Họ đấu tranh cho các quyền con người và quyền công dân, chống lại sự lạm dụng quyền lực của các cơ quan nhà nước, đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ các quyền tự do của con người. Những đại biểu xuất sắc của trường phái này là Aristote, Ciceron, Grotius, Montesquieu... Chẳng hạn, Montesquieu cho rằng:

“Luật, theo nghĩa rộng nhất, là những quan hệ tất yếu từ trong bản chất của sự vật. Với nghĩa này thì mọi vật đều có luật của nó. Thế giới thần linh, thể giới vật chất, những trí tuệ siêu việt, cho đến các loài vật, và loài người đều có luật của mình”.

Ngày nay, cả trong lí luận cũng như thực tiễn, pháp luật đều được tiếp cận theo quan điểm pháp luật thực định, nhưng có tiếp thu những giá trị của quan điểm pháp luật tự nhiên. Theo đó, pháp luật do nhà nước ban hành nhưng phải phù họp với thực tiễn khách quan, phù hợp với quy luật vận động và phát triển của đời sống, pháp luật phải dựa trên cơ sở công lí, phải phù hợp với các quyền tự nhiên của con người. Chính vì vậy, danh từ pháp luật trong ngôn ngữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phản chiếu ý niệm công lý. Thực tế cho thấy, pháp luật của nhiều nhà nước đương đại đã thừa nhận quyền con người với tư cách là quyền tự nhiên, bẩm sinh mà tạo hoá đem lại cho họ.

3. Khái niệm pháp luật ?

Ở Việt Nam hiện nay, trong giáo trình của các cơ sở đào tạo luật học cũng như trong sách báo pháp lí tồn tại nhiều định nghĩa về pháp luật dưới góc độ là pháp luật thực định. Tuy nhiên, có thể nói, các định nghĩa đó cơ bản chỉ khác nhau về câu chữ và thể hiện quan niệm về pháp luật với tư cách là một loại quy tắc ứng xử của con người, một loại chuẩn mực xã hội, pháp luật có những điểm khác biệt cơ bản so với các loại chuẩn mực xã hội khác như đạo đức, phong tục tập quán... Giáo trình này cũng quan niệm về pháp luật dưới góc độ tương tự, từ đó có thể hiểu:

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của nhà nước.

4. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật ?

Trên cơ sở quan niệm như trên về pháp luật, có thể thấy, pháp luật có các đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất, pháp luật có tỉnh quyền lực nhà nước

Tính quyền lực nhà nước là đặc điểm riêng có của pháp luật. Để thực hiện việc tổ chức và quản lí các mặt của đời sống xã hội, nhà nước cần có pháp luật. Các quy định pháp luật có thể do nhà nước đặt ra, cũng có thể được tạo nên từ việc nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự sẵn có trong xã hội như đạo đức, phong tục tập quán, tín điều tôn giáo... Với tính cách là những quy tắc xử sự, phảp luật chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho phép của nhà nước đối với hành vi ứng xử của các chủ thể trong xã hội. Nói cách khác, pháp luật thể hiện ý chí của nhà nước. Thông qua pháp luật, nhà nước cho phép người dân được làm gì, không cho phép họ làm gì hay bắt buộc họ phải làm gì, làm như thế nào... Với quyền lực của mình, nhà nước có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức thực hiện pháp luật, yêu cầu các cá nhân, tổ chức trong xậ hội phải thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh. Khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo vệ pháp luật, trừng phạt người vĩ phạm, đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống.

Thứ hai, pháp luật có tính quy phạm phổ biến

“Quy phạm” nghĩa là khuôn thước, khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định của pháp luật là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho nhận thức và hành vi của mọi người, hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức trong xã hội. Các chủ thể khi ở vào điều kiện, hoàn cảnh do pháp luật dự liệu thì xử sự theo những khuôn mẫu mà nhà nước đã nêu ra. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, các tổ chức và cá nhân trong xã hội sẽ biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì và làm như thế nào khi ở vào một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó. Phạm vi tác động của pháp luật rất rộng lớn, nó là khuôn mẫu ứng xử cho mọi cá nhân, tổ chức trong đời sống hàng ngày, nó điều chỉnh các quan hệ xã hội trên các lĩnh vực của cuộc sống, pháp luật tác động đến mọi địaphưorng, vùng, miền của đất nước.

Thứ ba, pháp luật có tính hệ thống

Bản thân pháp luật là một hệ thống các quy phạm hay cạc quy tăc xử sự chung, các nguyên tắc, các khai niệm pháp lí... Pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội bằng cậch tác động lên cách xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ xã hội đó, làm cho quan hệ phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Mặc dù điều chỉnh các quan hệ xã hội trong nhiều lĩnh vực khác nhau, song các quy định của pháp luật không tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhaú, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.

Thứ tư, pháp luật có tính xác định về hình thức

Pháp luật được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật. Ở dạng thành văn, các quy định của pháp luật được thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tượng, chung chung, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên toàn xậ hội.

Ngày nay, sự giao lưu quốc tế ngày càng mở rộng, sự tác động qua lại, ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng lớn. Đe điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc giá, các tổ chức quốc tế cũng cần có pháp luật, gọi là pháp .luật quốc tế. Pháp luật quốc tế được hiểu là hệ thống quy phạm do các quốc gia, các tổ chức quốc tế thỏa thuận xây dựng nên để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong đời sống quốc tế. Bên cạnh những điểm tương đồng với pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế có những nét đặc thù. Trong phạm vi giáo trình này chủ yếu đề cập đến pháp luật quốc gia.

Luật Minh KHuê [biên tập]

Video liên quan

Chủ Đề