Tại sao dân số ngày càng già đi

Đảm bảo cuộc sống cho người già-bài toán khó

Phân tích sâu những khó khăn mà Việt Nam sẽ phải đối mặt trong tương lai, TS Giang Thanh Long cho rằng: Thách thức trước mắt chính là tình trạng dân số “già trước khi giàu” và “thọ nhưng không khoẻ mạnh”. Điều đó sẽ gây áp lực lớn cho xã hội. Chẳng hạn, chi phí chữa bệnh cho một người cao tuổi bằng 7-8 lần chi phí chữa bệnh cho một trẻ em... Thách thức của cơ cấu dân số già về lâu dài đó là mức hưởng chế độ hưu trí, trợ cấp xã hội ngày càng thấp do các bất cập trong qui định về chế độ này hiện nay.

Theo các chuyên gia về lĩnh vực dân số, 3 thách thức lớn chúng ta sẽ gặp phải khi dân số bước vào giai đoạn già hoá.. Thứ nhất, già hoá dân số sẽ khiến cấu trúc gia đình thay đổi. Con người sống lâu hơn, sinh ít con hơn và cũng ít quyền được lựa chọn chăm sóc hơn. Hiện tại, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, tinh thần cho người cao tuổi ở nước ta chưa phát triển, đa số người cao tuổi vẫn sống nương tựa vào con cháu. Các chuyên gia lo lắng, nếu nhịp độ già hoá dân số vẫn tăng nhanh đều như hiện nay thì chỉ trong khoảng vài chục năm tới, người cao tuổi ở nước ta sẽ gặp khó khăn về vấn đề chỗ ở. Thứ hai, già hoá dân số khiến thời gian sống sau nghỉ hưu tăng lên, làm gia tăng áp lực lên hệ thống y tế và hệ thống trợ cấp lương hưu. Đồng nghĩa với việc hệ thống bảo trợ xã hội cần được cải thiện. Tuy nhiên việc này không dễ thực hiện bởi ngân quỹ quốc gia còn hạn chế, hệ thống khám chữa bệnh chuyên khoa cho người già chưa phát triển. Hiện cả miền Bắc mới chỉ có duy nhất Viện Lão khoa quốc gia là BV chuyên khoa dành cho đối tượng người cao tuổi. Những chính sách an sinh xã hội cũng mới chỉ trợ giúp, đáp ứng được một phần nhu cầu cơ bản của một bộ phận người cao tuổi như: Người già neo đơn, không nơi nương tựa, người trên 85 tuổi... Thứ ba, già hoá dân số sẽ khiến những thách thức kinh tế mới nổi lên. Cơ cấu dân số trong độ tuổi lao động giảm đi, cơ cấu nghề nghiệp sẽ thay đổi, gánh nặng kinh tế cho người lao động trẻ cũng cao hơn... Tất cả những hệ luỵ đó nếu không được giải quyết thoả đáng sẽ là thách thức to lớn cho sự phát triển toàn diện của đất nước trong tương lai không xa.

Theo ông Dương Quốc Trọng để giải bài toán già hoá dân số, cần nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định chính sách và của toàn xã hội về các thách thức liên quan đến vấn đề già hóa dân số một cách nhanh chóng. Cần nâng cao vai trò của các hiệp hội, tổ chức chính trị, xã hội và nghề nghiệp trong xây dựng và tuyên truyền để các chính sách, các chương trình được thiết kế phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của người cao tuổi. Tăng cường hệ thống bảo trợ xã hội cùng với tăng trưởng và phát triển kinh tế nhằm bảo đảm và nâng cao thu nhập cho người cao tuổi thông qua tạo việc làm và phúc lợi hưu trí. Đặc biệt các dịch vụ y tế cần được mở rộng, năng cao năng lực đảm nhận trọng trách chăm sóc tốt cho người cao tuổi

Vì sao dân cư châu Âu đang già đi? Châu Âu còn có tên gọi khác là lục địa già. Tên gọi này không chỉ xuất phát từ việc châu Âu có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời mà còn có ý nghĩa nhắc nhở về việc dân số của châu Âu đang có xu hướng già đi.

Dân cư châu âu già đi nó ảnh hưởng khá nghiêm trọng tới sự phát triển kinh tế văn hóa, xã hội trong tương lai. Vậy, tại sao lại nói dân cư châu Âu đang già đi? nó ảnh hưởng gì đến kinh tế xã hội Hãy cùng bancobiet.org đi tìm những lý do dẫn tới hiện tượng này.

Theo kết quả thống kê hiện nay, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động của các nước châu Âu đang ngày càng suy giảm nghiêm trọng. Số người già đã đến tuổi nghỉ hưu tăng lên mạnh mẽ. Trong khi đó, nhân lực trẻ để bổ sung vào lại vô cùng ít ỏi.

Tại sao dân số ngày càng già đi
Vì sao dân cư châu âu đang già đi TOP 4 nguyên nhân chính

Theo tính toán, nếu tình hình không có gì thay đổi thì tới năm 2050, tại một số nước châu Âu. Tỷ lệ người lao động và người nghỉ hưu sẽ ngang bằng nhau. Khi đó, tiền lương hưu sẽ phải chi trả ngày càng nhiều. Điều này ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, xã hội.

Để giải quyết bài toán này, nhiều quốc gia đã đề nghị với Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) về chính sách nghỉ hưu trễ hơn. Dù rằng người lao động lớn tuổi khi làm việc sẽ được trả lương cao hơn người lao động ít tuổi. Nhưng ít nhất, chính sách này cũng được cho là sẽ giảm bớt áp lực gánh nặng lao động cho châu Âu.

Chiến lược toàn cầu của Mỹ là gì? mục tiêu đặc điểm tác động của nó

Theo các nhà dân số học, các quốc gia cần phải có tỷ lệ sinh con tự nhiên thấp nhất là 2,1 con/ 1 người phụ nữ để duy trì dân số. Tuy nhiên, con số trung bình ở châu Âu chỉ khoảng 1,59.

Việc tăng trưởng dân số chậm có thể tác động khôn lường đến tình hình kinh tế. Các công ty đầu tư ít hơn cho tương lai. Người lao động lớn tuổi sẽ phải tiết kiệm khi về già. Tăng trưởng đình trệ, lãi suất giảm.

Việc tỷ lệ sinh suy giảm sẽ làm thay đổi cấu trúc dân số.  Tuổi trung bình tăng và số người hưu trí cao hơn. Đồng thời, tuổi thọ cao hơn mang đến nhiều thách thức cho chính phủ và các nhà hoạch định chính sách. Ví dụ như các vấn đề về lương hưu, chính sách chăm sóc sức khỏe….

Theo một kết quả báo cáo xã hội học của Hội Đồng châu Âu (EC) vào năm 2003. Toàn lãnh thổ châu Âu có khoảng 814 triệu dân cư. Trong số đó 803,5 triệu người bản địa. So với năm 2002, dân số EC chỉ tăng 0,08%, mức tăng thấp nhất so với các châu lục khác.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng này là do nam nữ châu Âu đang có xu hướng không muốn kết hôn hoặc kết hôn nhưng không sinh con. Trong khi đó, dịch vụ y tế hoàn hảo khiến số người có tuổi thọ tăng cao. Từ đó, làm cho cơ cấu dân số mất cân đối. Tỷ lệ người cao tuổi tăng, già hóa dân số diễn ra mạnh mẽ.

Để cải thiện tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động, EC đã kêu gọi các quốc gia thành viên tăng cường giáo dục để mỗi công dân ý thức được vai trò của mình trong công tác dân số, thực hiện nghĩa vụ với tương lai đất nước và châu lục. Thậm chí, một số quốc gia còn có chính sách khuyến khích sinh con mạnh mẽ tới mức trả tiền để tăng tỷ lệ sinh và nhiều phúc lợi khác. Từ đó, nhằm mục đích thúc đẩy quá trình trẻ hóa dân số.

Tại sao nói thế giới chúng ta đang sống thật rộng lớn và đa dạng

Mặc dù tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên thấp nhưng dân số châu Âu vẫn tăng lên đáng kể. Nguyên nhân là do vấn đề nhập cư. Với những nước đang thiếu hụt lao động, chính sách của họ là tiếp nhận những người di cư để đáp ứng nhu cầu sử dụng nguồn lao động.

Theo số liệu thống kê của ủy ban châu Âu vào năm 2018, có tới 22,3 triệu người cư trú tại EU là công dân ngoài châu lục.

Tại sao dân số ngày càng già đi
Di cư ảnh hưởng tới dân số lý do vì sao dân cư châu âu đang già đi

Nếu độ tuổi trung bình của công dân trong EU là 44 tuổi vào năm 2018 thì những công dân có quốc tịch là 36 tuổi. Tuy nhiên, vấn đề di cư lại gây nên một vài căng thẳng, bất ổn chính trị cho các quốc gia.

Lý giải cho điều này như sau: Trong khi một số nước EU tiếp nhận hàng nghìn người di cư để bổ sung lực lượng lao động. Nhưng một số nước khác lại thấy dòng người lao động bị chảy sang nước khác. Khi đó, số người trong độ tuổi lao động giảm, tổng sản phẩm quốc nội tăng trưởng thấp… Điều này dẫn tới mất cân bằng kinh tế, xã hội.

Già hóa dân số đang là một trong những thách thức nghiêm trọng đối với Châu Âu. Hy vọng rằng, trong thời gian tới, lục địa này sẽ sớm có những chính sách phù hợp để thúc đẩy trẻ hóa dân số hoặc thích ứng với hiện tượng này một cách hợp lý.

Trên đây là giải đáp của bancobiet.org về lý do vì sao dân cư châu Âu đang già đi? Hy vọng những thông tin mà chúng tôi mang lại đã giúp bạn hiểu rõ hơn về châu lục này. Đừng quên ghé thăm website của chúng tôi mỗi ngày để cập nhật thật nhiều thông tin thú vị nhất nhé!

Trước hết, sự thay đổi của cấu trúc tuổi sẽ làm thay đổi trực tiếp đến tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động, bộ phận chủ yếu của lực lượng lao động.

Do tỷ suất sinh và tỷ suất chết giảm cùng với tuổi thọ tăng, số người cao tuổi của Việt Nam tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là ở khu vực thành thị cả về số lượng cũng như tỷ trọng trong dân số.

Tại sao dân số ngày càng già đi
Già hóa dân số đang đặt ra thách thức với Việt Nam khi cần phải đầu tư nhiều hơn cho hệ thống y tế chăm sóc, điều trị người cao tuổi. Ảnh: Hà Linh

Theo phân loại mà Ủy ban Kinh tế và xã hội Khu vực châu Á và Thái Bình Dương của Liên Hợp quốc (UNESCAP) sử dụng, khi dân số từ 65 tuổi trở lên chiếm từ 7% đến 9,9% tổng dân số thì dân số được coi là “già hóa”. Tương tự, 10% đến 19,9% gọi là dân số “già”; 20% đến 29,9% gọi là dân số “rất già” và từ 30% trở lên gọi là dân số “siêu già”.

Một số báo cáo sử dụng tỷ trọng dân số từ 60 tuổi trở lên để phân loại. Dân số được coi là “già hóa” khi tỷ lệ người từ 60 tuổi trở lên chiếm 10% dân số; tương ứng cho “già”, “rất già” và “siêu già” là từ 20%, 30% và 35%. Luật Người cao tuổi Việt Nam năm 2009 qui định, người cao tuổi là những người từ đủ 60 tuổi trở lên (quốc tế thường qui định từ 65 tuổi trở lên) nên chúng ta sẽ sử dụng tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên để phân loại mức độ già hóa dân số.

Theo số liệu của cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, tỷ trọng dân số từ 60 tuổi trở lên của cả nước chiếm 8,68% dân số, đến Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, con số này đã tăng lên 11,86%. Như vậy, dân số Việt Nam đã bước vào giai đoạn “già hóa” từ trước năm 2019 (khoảng năm 2014).

Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Tốc độ gia tăng của tỷ trọng dân số 60 tuổi trở lên của dân số Việt Nam ngày một nhanh. Nếu như trong 10 năm từ 1999 đến 2009, tỷ trọng dân số từ 60 tuổi trở lên chỉ tăng được 0,58 điểm phần trăm (từ 8,10% lên 8,68%), trong 10 năm tiếp theo (2009 - 2019), tỷ trọng này đã tăng 3,18 điểm phần trăm (từ 8,68% lên 11,86%).

Theo dự báo dân số gần nhất của Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dựa trên kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở 2019, tỷ trọng dân số từ 60 tuổi trở lên sẽ tăng lên 16,53% năm 2029; 20,67% năm 2039; 24,88% năm 2049; 27,01% năm 2059 và tới 27,11% năm 2069 (xem Biểu 1). Theo dự báo này, sau giai đoạn “già hóa” dân số Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn “già” vào khoảng cuối năm 2037 đầu năm 2038. Như vậy, thời gian để dân số Việt Nam quá độ từ giai đoạn “già hóa” sang “già” là khoảng 23 năm. Đây là khoảng thời gian khá ngắn nếu như so sánh với nước có thời gian quá độ từ giai đoạn “già hóa” sang “già” của Pháp là 115 năm (1865 - 1980), Thụy Điển - 85 năm (1890 - 1975), Canada - 65 năm (1944 - 2009), Anh - 45 năm (1930 - 1975), Nhật Bản 26 năm (1970 - 1996), Trung Quốc - 26 năm (2000 - 2026). Các nhà nhân khẩu học dự đoán thời gian quá độ từ giai đoạn “già hóa” sang “già” của Thái Lan là thấp hơn một chút so với Việt Nam, khoảng 22 năm (2003 - 2025).

Tại sao dân số ngày càng già đi

Già hóa dân số dẫn đến số người cao tuổi tăng rất nhanh. Nếu như tại thời điểm 1/4/2009 tổng số người cao tuổi (tổng số người từ 60 tuổi trở lên) là 7,45 triệu người (chiếm 6.68% dân số), thì sau 10 năm, đến thời điểm 1/4/2019, số người cao tuổi đã tăng lên 11,41 triệu người (chiếm 11,86% dân số), bình quân mỗi năm tăng 395 nghìn người.

Theo dự báo của Tổng cục Thống kê (phương án trung bình), đến năm 2029 số người cao tuổi Việt Nam sẽ đạt 17,28 triệu người (chiếm 16,53% dân số, tăng 5,87 triệu người so với 10 năm trước đó (2019), bình quân mỗi năm tăng 587 nghìn người. Cũng theo dự báo này, đến năm 2039, số người cao tuổi của Việt Nam sẽ là 22,799 triệu người (chiếm 20,57% dân số), năm 2949 sẽ đạt 28,610 triệu người (chiếm 24,88% dân số). Việc tăng nhanh số lượng cũng như tỷ trọng người cao tuổi không chỉ nhờ giảm tỷ lệ tử vong và tăng tuổi thọ mà phần lớn là do giảm tỷ lệ sinh trong dân số.

Cũng giống như việc gia tăng số lượng dân số, dân số già hóa cũng gây ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như hạ tầng cơ sở và các dịch vụ an sinh xã hội, đặc biệt là ở các khu đô thị.

Già hóa dân số - Một vấn đề kinh tế-xã hội cần được quan tâm. Ảnh: Hà Linh

Già hóa dân số gây ra hậu quả cơ bản là thiếu lao động bổ sung cho tương lai. Một trong nhũng nguyên nhân dẫn đến già hóa dân số là do mức sinh ngày càng giảm dẫn đến số trẻ em ngày càng ít đi và kết quả là, trong tương lai, lực lượng lao động, những người làm ra của cải vật chất cho xã hội sẽ bị thiếu hụt. Già hóa dân số dẫn đến nhu cầu an sinh xã hội ngày càng tăng ở người cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ lớn tuổi. Nhiều người cao tuổi có khả năng và mong muốn làm việc sau độ tuổi hưu nên xã hội cần trao cơ hội hoạt động kinh tế phù hợp cho người cao tuổi.

Nguy cơ khuyết tật và bệnh tật luôn gia tăng theo độ tuổi. Tuổi càng tăng thì tỷ lệ người cao tuổi có sức khỏe yếu càng cao, số bệnh mắc phải càng lớn và thời gian nằm bệnh càng dài. Điều này đòi hỏi phải chăm sóc người cao tuổi nhiều hơn. Sự hỗ trợ người cao tuổi ngày càng khó khăn, nhất là ở khu vực thành thị. Sự gia tăng nhanh chóng số người cao tuổi đặt gánh nặng lên vai các thành viên trẻ tuổi trong gia đình gây tình trạng căng thẳng có thể dẫn đến tình trạng ngược đãi người cao tuổi.

Già hóa dân số dẫn đến tình trạng số lượng phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm, cùng với mức độ sinh giảm  dẫn đến nguy cơ suy giảm dân số.

Già hóa dân số là một lĩnh vực cần sự quan tâm sâu sát của các nhà hoạch định chính sách. Chăm sóc đời sống người cao tuổi cả về vật chất lẫn tinh thần luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm. Cần xây dựng khung pháp lý và chính sách để bảo vệ quyền của các cá nhân khi về già, trao quyền và giúp người cao tuổi hòa nhập xã hội trong các môi trường phát triển, đặc biệt liên quan đến khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe chất lượng cao, phòng ngừa và ứng phó với bạo lực gia đình, cơ hội việc làm và đảm bảo tài chính.

Cần phát triển hệ thống chăm sóc toàn diện bao gồm cả chăm sóc tập trung và chăm sóc cộng đồng. Chú trọng đến các nhóm người cao tuổi dễ bị tổn thương, yếu thế như người cao tuổi là dân tộc thiểu số, người cao tuổi khuyết tật, người cao tuổi là nạn nhân bạo lực gia đình.

Cần hoạch định chính sách dựa trên bằng chứng về vấn đề già hóa  dân số và chăm sóc người cao tuổi cũng như truyền thông cho công chúng về vấn đề già hóa thông qua cách tiếp cận theo vòng đời mang tính chuyển đổi về giới.

Tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân đầu tư cung cấp dịch vụ chăm sóc người cao tuổi cũng như ứng dụng công nghệ số trong chăm sóc người cao tuổi.