Tên của hệ đấu củng của Trung Quốc là gì

Đời Hạ, Thương, Chu, kiến trúc Trung Quốc đã xuất hiện kết cấu xây nhà bọc xung quanh sân ở giữa. Vào thời này, kỹ thuật đầm đất và sử dụng gỗ trong xây dựng đã phát triển vượt trội nhờ sự xuất hiện của các công cụ bằng đồng, sắt. Kinh đô được vây xung quanh bởi tường thành bằng đất nện, lấy cung điện nhiều bậc thềm làm chính.

Đến đời Tần và đời Hán, việc thống nhất đất nước tạo điều kiện cho giao thông phát triển thuận lợi. Theo đó, kỹ thuật xây dựng cũng phát triển nhờ có sự giao lưu giữa các địa phương. Đời Tấn và Nam Bắc Triều, cách thức xây dựng của dân tộc và nước ngoài đã được dung hợp vào kỹ thuật. Cũng trong thời kỳ đó, Đạo giáo và Phật giáo phát triển, các kiến trúc tôn giáo cũng bắt đầu xuất hiện. 

Đời Đường, kiến trúc Trung Quốc đạt đến sự tinh vi và thuần thục rất cao. Việc chế tạo ngói tráng men [lưu ly ngoã] đã xuất hiện từ đời Nam Bắc Triều, vào thời Đường đã được cải tiến và sử dụng rộng rãi hơn.

Đời Tống là thời kỳ kỹ thuật xây dựng có sự chuyển biến mạnh mẽ. Từ phong cách trang trọng và giản dị của đời Đường, kiến trúc đã chuyển mình với sự hoa lệ và cầu kỳ của đời Tống. Tác phẩm Doanh Tạo Pháp Thức của Lý Giới cũng xuất hiện vào đời này. Đây có thể xem là sách giáo khoa về kỹ thuật xây dựng thời cổ, với nội dung chi tiết về toàn bộ quá trình xây dựng, thao tác đo đạc nền móng, tính toán vật liệu, thi công,... 

Nghề làm gạch phát triển vào đời Minh và Thanh. Gạch được sử dụng nhiều trong các công trình xây dựng ở thời này, từ nhà ở của dân đến đền đài, thành quách, cầu đường.

>> Khám phá: Sự trở lại của kiến trúc Indochine - dấu ấn vượt thời gian

Đặc điểm của kiến trúc Trung Quốc

Đặc điểm chung của kiến trúc Trung Quốc là thiết kế và xây dựng với nguyên liệu chính là gỗ. Các thanh gỗ được thiết kế chủ yếu làm cột và xà ngang để có thể đảm nhận toàn bộ trọng lượng công trình.

Kiến trúc Trung Quốc thường sử dụng cột, xà, dầm đỡ để tạo bộ “xương” chắc chắn cho công trình kiến trúc. Tường không có tác dụng nâng đỡ mà chỉ dùng để bao bọc ngôi nhà. Đây là điểm khá đặc biệt của các công trình nghệ thuật theo phong cách kiến trúc Trung Quốc.

Người Trung Quốc có rất nhiều kinh nghiệm trong nghệ thuật ghép mộng và sắp xếp các thanh gỗ để nâng cao độ rắn chắc và bền bỉ của công trình. Các cách sắp xếp gỗ như “đấu củng”, “khóa Khổng Minh” đã trở nên vô cùng nổi tiếng trên toàn thế giới.

Điểm đặc biệt của các công trình kiến trúc Trung Quốc còn nằm ở cách bố trí các không gian trong nhà. Gian giữa - nơi quan trọng nhất của nhà được dùng để thờ cúng và tiếp khách. Các gian bên sẽ dành cho các thành viên ít tuổi hơn trong gia đình.

Những công trình nổi bật của kiến trúc Trung Quốc

Công trình kiến trúc Vạn Lý Trường Thành

Vạn Lý Trường Thành được xem là công trình kiến trúc Trung Quốc vĩ đại nhất, là niềm tự hào dân tộc cũng như là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của Trung Quốc. Trường Thành được xây dựng uốn khúc chập chùng, bắt đầu từ ải quan Gia Dụ [Cam Túc] ở phía tây, chạy thẳng sang phía đông đến ải quan Sơn Hải [Hà Bắc]. Trường Thành nguyên là các bức tường của các nước thời Chiến Quốc dùng ngăn giặc.

Năm 221 TCN, vào thời điểm vừa mới thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng sai tướng Mông Điềm kéo quân đánh Hung Nô, chiếm cứ vùng Hà Nam. Vua Tần Thuỷ Hoàng cho gia cố và xây dựng thêm Trường Thành, để ngừa việc quân Hung Nô tiến xuống phía nam, giao cho tướng Mông Điềm chỉ huy giám sát trong mười năm. 

Công trình kiến trúc hoàng cung

Cung điện là nơi giải quyết việc nước cũng như cư ngụ của nhà vua. Trải qua nhiều triều đại và đời vua khác nhau, các đặc điểm của kiến trúc cung điện Trung Quốc cũng không ngừng thay đổi.

Công trình kiến trúc Phật tự 

Chùa chiền xuất hiện ở Trung Quốc khi Phật giáo du nhập vào đất nước này vào thời Hán Minh Đế. Ban đầu, vị vua này cho xây riêng một toà nhà ở Lạc Dương để làm chỗ ở và tàng trữ kinh văn cho hai cao tăng Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp La, đặt tên là Bạch Mã Tự.

Khi Phật giáo phát triển, các chùa chiền mọc lên, bố cục kiến trúc chùa ở Trung Quốc ảnh hưởng theo kiểu kiến trúc qua các dinh phủ quan lại đời Hán, cụ thể: Cổng vào nằm trên trục Nam Bắc, cách một khoảng sân lại có toà điện, xung quanh là hành lang. 

Chùa chiền thường có bố cục bao gồm: Cổng chính có ba cửa nhỏ, bước qua cổng là Thiên Vương Điện, có gác chuông hai bên. Bên cạnh điện Thiên Vương là lớp Đại Hùng Bảo Điện, gồm đại điện thờ chư Phật; sau đại điện là pháp đường để thuyết pháp giảng kinh. Hai bên hông chùa là pháp đường, trai đường và thiền đường. Nơi ở của sư trụ trì, nhà kho, nhà bếp, nhà tắm và nhà tiếp khách thì được xây dựng xung quanh.

Công trình kiến trúc lăng mộ

Văn minh Trung Quốc in đậm dấu ấn nhất trong việc mai táng. Những gì khai quật được ở lăng mộ vua chúa đời Thương ở An Dương và lăng mộ Tần Thuỷ Hoàng ở Lâm Đồng [Tây An] khiến người ta phải kinh ngạc. 

Trước khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, người Trung Quốc quan niệm sau khi chết  linh hồn sẽ “sống” ở cõi âm. Quan niệm này khiến họ phải tùy táng những đồ vật cho người quá cố hưởng thụ như thể người đó còn sống ở cõi dương. Những vật tùy táng này gọi là minh khí.

Kiến trúc Trung Quốc cổ đại trên mặt đất thường là kết cấu gỗ, kiến trúc cho các mộ thất thì bằng đất, gạch, và đá. Những gia đình giàu có xây các ngôi mộ nhỏ hơn các ngôi mộ của quan lại vua chúa, nhưng cũng có đủ cả các đồ minh khí y hệt như những vật mà người quá cố đã dùng lúc sinh tiền.

Công trình kiến trúc hoa viên, vườn cây cảnh

Người Trung Quốc xem việc xây dựng hoa viên là một hình thái nghệ thuật không kém gì thư pháp và hội hoạ. Sự sáng tạo trong thiết kế hoa viên thể hiện ở hoa cảnh, cây cỏ, hồ nước, núi non,... Mang đến sự hài hoà giữa con người với thiên nhiên. Hoa viên Trung Quốc gồm ba chủng loại: vườn rừng [lâm viên], hoa viên của Đế vương và hoa viên tư nhân.

Kết: 

Với nền văn hoá rực rỡ hơn 5000 năm, Trung Quốc đã để lại cho thế giới những công trình kiến trúc vĩ đại và đồ sộ bậc nhất. Hy vọng những thông tin về kiến trúc Trung QuốcVinhomes chia sẻ trên đây sẽ giúp khách hàng hiểu thêm về nền nghệ thuật độc đáo này.

Để lại thông tin tại đây

Xem thêm: 

Có rất nhiều chủ đầu tư đi tìm hiểu về các căn nhà gỗ cổ truyền nhưng họ đều khá bỡ ngỡ với những cách gọi khác nhau cũng như là kết cấu nhà trong kiến trúc nhà gỗ. Trong bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu tới toàn thể quý vị và các bạn chi tiết về kết cấu kiến trúc nhà gỗ cũng như là cách gọi tên của nó. Từ đó, chúng ta có thể lưu truyền lại những giá trị trong kiến trúc nhà ở truyền thống của người Việt tới các thế hệ sau này.

Nhắc đến kiến trúc nhà gỗ cổ truyền, chúng ta sẽ liên tưởng ngay đến những căn nhà gỗ 3 gian, 5 gian tuyệt đẹp của người Bắc Bộ. Điểm nhấn của các căn nhà gỗ cổ truyền này đó chính là hệ thống cột gỗ to, khỏe; rồi được dựng lên theo các vì và nối với nhau bằng các thanh xà ngang, xà ngưỡng liên hoàn tạo nên một bộ khung vững chắc. Sau khi dựng được bộ khung này rồi thì bước tiếp theo sẽ là lợp mái và làm tường xung quanh. Để rõ hơn, KataHome kính mời quý vị và các bạn tiếp tục đón đọc các thông tin mà chúng tôi sẽ giới thiệu ngay sau đây:

Các nét đặc trưng của các căn nhà gỗ cổ truyền Việt Nam

Những căn nhà truyền thống của người Việt Nam ta có 3 nét đặc trưng của kiến trúc cổ Việt Nam [thời Lê Trung Hưng, triều Nguyễn] để có thể phân biệt được trong nền kiến trúc nhà gỗ cổ phương Đông

  • Hệ dốc mái thẳng
  • Dùng bảy, kẻ đỡ mái hiên
  • Cột mập to, phình ở phần giữa thân dưới

Nếu ta đem so sánh các mẫu nhà gỗ cổ truyền Việt Nam với các mẫu nhà gỗ Trung Quốc dưới thời Minh Thanh thì sẽ thấy được sự khác nhau:

  • Dốc mái võng xuống
  • Đỡ mái hiên bằng hệ đấu – củng [con sơn chồng dầu – chồng đấu tiếp rui]
  • Cột thanh mảnh, tròn đều

1. Mái nhà – Nhà gỗ cổ truyền

Với lối kiến trúc nhà gỗ cổ truyền thống của người Việt Nam thì triền mái thẳng, không cong nhưng lại hếch lên ở góc mái tạo sự thanh thoát. Phần mái lớn và thường chiếm tới 2/3 chiều cao mặt đứng công trình nhất là đối với hệ mái đình. Góc mái [tàu đao] làm cong uốn ngược còn được gọi là đao quật.

Trong lối kiến trúc nhà gỗ cổ truyền của người Trung Hoa hay người Nhật tuy cũng mái cong vươn ra nhưng chỉ hơi hếch ở góc mái còn thân mái võng xuống, dốc nhiều ở đỉnh rồi xoài dần khi xuống diềm mái.

Việc trang trí trên mái cổ thường có các phần đặc trưng như những con giống gắn trên đầu đao. Trong đó con giống luôn là hình tượng thể hiện được tinh thần của ngôi nhà và được làm từ đất nung hay vữa truyền thống. Tiếp theo là các bờ nóc có đặt gạch hoa chanh, đính mái gắn con kìm [long nghê hay cá chép hóa rồng] ở hai đầu bờ nóc, con sô ở chỗ bờ quyết [bờ guột], con náp hay lạc long thủy quái. “Khu đĩ” thường được để trống thông thoáng và có chạm yến trang trí gọi là “vỉ ruồi”.

Hệ thống đỡ mái hiên là bằng cây kẻ hay bẩy. Đây là một thanh gỗ đặt chéo theo triền dốc mái khi đến diềm mái thì vươn ra bằng nguyên tắc đòn bẩy.

2. Cột – Nhà gỗ cổ truyền

Cột chính là phần đỡ chính của công trình khi mà toàn bộ khối lượng công trình đều đặt lên các cột. Cột tròn, to, mập phình ra ở giữa. Tiết diện của cột thường là cột thân trong nhưng cũng có khi là dùng cột vuông.

Sức nặng công trình được đặt lên các cột, các cột lại được đặt trên các chân trụ chứ không phải là được chôn xuống đất như thông thường. Và chính bởi sức nặng của công trình đã giúp cho các trụ cột trở nên chắc chắn và hoạt động một cách ổn định, vững vàng.

Căn nhà gỗ cổ truyền được xây theo các vì nhà và sau đó các vị được dựng lên nối với nhau bằng các thanh xà ngang, xà ngưỡng tạo thành một hình hộp. Sau đó thì mới lớp mái và làm tường nhà. Vì nhà chính là đơn vị cơ bản khi nói đến kích thước ngôi nhà, giữa hai vì gọi là “gian”. Vì nhà cũng là đặc trưng cho lối kiến trúc theo từng địa phương và từng thời kỳ tuy rất trung thành thành với kiến trúc cổ Việt Nam.

3. Chạm khắc – Nhà gỗ cổ truyền

Trong kiến trúc nhà cổ truyền thống, việc chạm trổ, điêu khắc trên các thanh gỗ là một phần rất quan trọng bởi nó thể hiện được tinh thần cũng như là tính thẩm mỹ của công trình. So với lối kiến trúc của người Trung Hoa thích vẽ hình và sơn màu sắc, sặc sỡ. Còn kiến trúc dân gian Việt Nam lại tường để mộc màu gỗ hay quét sơn ta bảo vệ có màu nâu, thích chạm trổ.

4. Thước tầm – Nhà gỗ cổ truyền

Theo kiến trúc nhà cổ truyền thống Việt Nam thì tất cả các kích thước tính của công trình đều dược theo thước tầm [một cây thước được tính theo kích thước cơ thể gia chủ]. Đây chính là một trong những điều độc đáo theo các phân tích cái đẹp tỷ lệ thì thước tầm chính là module của kiến trúc nhà cổ truyền thống Việt Nam để tạo ra được vẻ đẹp hình học tinh tế như độ dốc mái, tỉ lệ chiều cao mái so với phần chân cột, sự thích hợp với chủ đầu tư.

Tên gọi các cấu kiện trong kiến trúc nhà gỗ cổ truyền Việt Nam

Khung nhà được chia không gian nhà thành các căn – gian – buồng bao gồm các chi tiết sau:

1. Cột – Nhà gỗ cổ truyền

Cột được kết cấu theo dạng đứng chịu nén.

Thường có các loại cột như:

  • Cột cái: Cột chính của nhà được đặt ở vị trí hai đầu nhịp chính giúp tạo chiều sâu cho gian giữa cũng như là nối hai cột cái là câu đầu.
  • Cột quân [cột con]: Đây là hệ thống cột phụ được thiết kế với chiều cao thấp hơn cột cái, nằm ở đầu nhịp phụ hai bên nhịp chính. Với sự khác biệt về chiều cao giữa cột cái và cột quân đã tạo nên độ dốc của hệ thống mái. Xà nách nối cột con với cột cái.
  • Cột hiên: Nằm ở hiên nhà phía trước và có chiều cao thấp hơn cột quân. Kẻ bảy nối cột con và cột hiên.

2. Xà – Nhà gỗ cổ truyền

Xà là các giằng ngang chịu kéo, liên tiếp các cột với nhau gồm có các loại xà nằm trong khung và các loại xà nằm ngoài khung vuông góc với khung. Xà nằm trong khung, thường đặt ở cao độ đỉnh các cột quân để có thể liên kết được cả với cột cái và cột quân.

Các loại xà bao gồm:

  • Xà lòng tức câu đầu – chếnh: Giúp liên kết các cột cái của khung
  • Xà nách – thuận: Giúp liên kết cột quân vào cột cái trong khung

3. Kẻ – Nhà gỗ cổ truyền

Kẻ là các dầm đơn đặt theo phương chéo của mái nhà, gác lên các cột bằng liên kết mộng.

Các loại kẻ bao gồm:

  • Kẻ ngồi là loại kẻ gác từ cột cái sang cột quân trong khung
  • Kẻ hiên gác từ cột quân sang cột hiên trong khung. Một phần kẻ hiên được kéo dài đâm xuyên qua cột hiên để đỡ phần chân mái.

Gợi ý cho bạn đọc: Xu hướng MỚI trong việc thiết kế biệt thự mini trong năm 2019

4. Bảy – Bảy hậu – Bảy hiên – Nhà gỗ cổ truyền

Đây là dầm nằm trong khung liên kết vào các cột quân phía sau nhà, đỡ phần mái vẩy phía sau. Đối với nhà ở thì tiền kẻ, hậu bẩy. Còn đối với các công trình công cộng như đình làng thì bốn mặt xung quanh đều có hiên thoáng không có cột hiên nên thường dùng bẩy hiên.

5. Câu đầu – Nhà gỗ cổ truyền

Câu đầu là dầm ngang chính đặt trên cùng dùng để khóa các đầu trên của các cột cái trong khung [gác lên các cột cái]

6. Con rường – Chồng rường – Nhà gỗ cổ truyền

Con rường [chồng rường] là các đoạn gối đỡ mái dạng dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng ngắn vì ở nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu.

  • Con lợn [rường bụng lợn] là con rường trên cùng gối lên các con rường bên dưới qua hai đoạn cột ngắn gọi là trụ trốn dùng để đỡ xà nóc [thượng lương]. Bên dưới rường bụng lợn [giữa hai trụ trốn] là ván lá đề thường để điêu khắc trang trí. Con lợn có thể được thay thế bằng giá chiêng
  • Rường cụt là loại rường nằm ở nách [giữa cột cái và cột quân]. Chúng được bố trí nằm chồng trên xà nách. Chúng cũng đỡ hoành và vẫn thu dần chiều dài khi lên cao theo độ dốc mái.

7. Các loại xà nằm ngoài khung – Nhà gỗ cổ truyền

Gồm có

  • Xà thượng giúp liên kết đỉnh các cột cái; xà này sóng song với chiều dài của nhà
  • Xà hạ [xà đại] giúp liên kết các cột cái tại cao độ đỉnh của cột quân, gần sát vị trí liên kết xà lòng, xà nách vào cột cái. Xà này cũng chạy song song với chiều dài của nhà.
  • Xà tử thượng [xà trên của cột con] giúp liên kết các cột quân của các khung ở bên trên.
  • Xà tử hạ [xà dưới của cột con] giúp liên kết các cột quân cảu các khung ở bên dưới tại mức độ cao ngay trên hệ cửa bức bàn
  • Xà ngưỡng nối các cột quân ở vị trí ngưỡng của. Xà này giúp đỡ hệ thống cửa bức bàn
  • Xà hiên liên kết các cột hiên của khung
  • Thượng lương [đòn đông – xà nóc] đặt trên đỉnh mái.

Gợi ý cho bạn đọc: Tổng hợp các mẫu biệt thự Pháp đẹp nhất hiện nay

8. Các kết cấu mái – Nhà gỗ cổ truyền

  • Hoành là các dầm chính đỡ mái đặt nằm ngang theo chiều dài nhà, vuông góc với khung nhà
  • Đui [rui] là các loại dầm phụ trung gian đặt dọc theo chiều dốc mái [trực giao với hoành] gối lên hệ thống hoành.
  • Mè là các dầm phụ nhỏ, đặt trực giao với dui song song với hoành gối lên hệ dui. Khoảng cách giữa các mè là nhỏ nhất vừa đủ để có thể lơp ngói. Việc sử dụng hệ kết cấu hoành – dui – mè nhằm phân nhỏ nhịp của kết cấu đỡ mái thành hệ lưới vừa đủ để lát lớp gạch màn và lợp ngói bên trên.
  • Gạch màn là một loại gạch lá nem đơn bằng đất nung giúp đỡ ngói đồng thời tạo độ phẳng cho mái cũng như là chống thấm dột, chống nóng. Gạch màn ngồi trực tiếp trên lớp mè.
  • Ngói mũi hài [ngói ta, gói vẩy rồng] bằng đất nung, trực tiếp chống thấm dột và chống nóng. Và được lợp trên lớp gạch màn và cũng có thể có lớp đất sét kẹp giữa.

9. Các chi tiết kiến trúc khác – Nhà gỗ cổ truyền

  • Cửa bức bàn
  • Con tiện
  • Dạ tàu
  • Đầu đao

10. Căn nhà gỗ cổ truyền của người Việt có thể làm theo:

Hình thức hai mái, hai đầu hồi bít đốc hay là theo hình thức bốn mái với hai mái phụ hai đầu hồi gọi là hai chái nhà. Mỗi chái nhà gồm có một hàng cột quân [có thể thêm một hàng cột hiên], các hàng cột này xoay vuông góc với các hàng cột trong các gian chính hoặc hình thức 8 mái chồng diêm.

Truyền thống người Việt thường làm nhà theo cơ số lẻ như:

  • Phương đình 1 gian chính giữa, bống xung quanh hệ cột quân đẳng hướng
  • Nhà 3 gian
  • Nhà 5 gian hay nhà 3 gian 2 chái
  • Nhà 5 gian hay nhà 5 gian 2 chái
  • Nhà 9 gian hay nhà 7 gian 2 chái

11. Bộ phận trần thiết – Nhà gỗ cổ truyền

Cửa và cửa sổ là nơi không gian trong và ngoài tiếp giáp với nhau.

Nói chung thì cửa ra vào được thiết kế khá lớn có khi không có cửa mà để ngỏ hoặc chỉ buông rèm, tấm liếp để che. Nếu gắn cửa thì có thể dùng cửa bức bàn bằng bán kín. Cầu kỳ hơn thì dùng cửa thượng song hạ bản tức là phí trên chấn trong, phía dưới là gỗ kín. Ngưỡng cửa khá cao người ra vào phải giơ chân để bước qua.

Còn cửa sổ thì được thiết kế tương đối nhỏ so với cửa ra vào.

Ngày nay, với sự phát triển của xã hội cho nên những căn nhà gỗ cổ truyền hiện nay cũng có những nét đổi mới từ chất liệu cho đến kiểu dáng nhưng vẫn được tuân theo các tiêu chuẩn nghiêm ngặt trong việc thiết kế nhà gỗ xưa. Để từ đó mà các tinh hoa kiến trúc nhà Việt không bao giờ bị phai nhạt. Với các căn nhà gỗ truyền thống như một lời nhắc nhở con cháu mai sau luôn cảm thấy tự hào về cha ông ta cũng như là sự phát triển của nền kiến trúc nhà truyền thống.

Nếu như quý vị và các bạn có bất cứ thắc mắc thì hãy gọi ngay cho chúng tôi theo số HOTLINE: 0988.688.373 – 0888.883.363 hoặc gửi thư về hòm thư trực tuyến: để được các tư vấn viên giải đáp thắc mắc nhé!

Cảm ơn các bạn đã đón đọc!

Xem chi tiết tại: //katahome.com/nha-go-co-truyen-tai-viet-nam-co-ket-cau-nhu-the-nao/

Video liên quan

Chủ Đề