Thời kỳ thanh tra là gì
Diễn đàn thanh tra Việc thi hành pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra - Thực trạng quy định và kiến nghị, đề xuất Page Content Kết luận thanh tra là văn bản quan trọng nhất của cuộc thanh tra, phản ánh toàn diện, đầy đủ về kết quả của cuộc thanh tra, là cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện những kiến nghị trong Báo cáo kết quả thanh tra của Đoàn thanh tra. Kết luận thanh tra được người ra quyết định thanh tra ban hành để đánh giá việc chấp hành chính sách, pháp luật của cơ quan, tổ chức và cá nhân được thanh tra; về các ưu điểm, nhược điểm của cơ chế, chính sách, pháp luật được thực hiện trên thực tế; phát hiện những sai phạm trong hoạt động quản lý; xác định rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân; từ đó có các biện pháp sửa chữa, khắc phục sơ hở, yếu kém, xử lý nghiêm minh các hành vi sai phạm. Do đó, hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra phụ thuộc rất lớn vào việc nhận thức, sự tuân thủ quy định pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện đầy đủ các kết luận thanh tra. Thực tiễn thi hành cho thấy, việc thực hiện quy định pháp luật về kết luận thanh tra đã đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh đó cũng có những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung phân tích về thực trạng quy định pháp luật về kết luận thanh tra và thực hiện kết luận thanh tra trong quá trình triển khai thực hiện, từ đó đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này. 04/12/2018 1. Theo cách hiểu thông thường, đối tượng (danh từ) là người, vật, hiện tượng mà con người tác động tới (trong suy nghĩ, hành động). Tuy nhiên, cũng có cách hiểu khác, đối tượng có thể là hiện tượng, vấn đề hay nội dung đang diễn ra trong xã hội mà con người cần tác động tới để đưa ra nhận xét, đánh giá hoặc làm rõ. Trong hoạt động thanh tra, đối tượng thanh tra có thể là một tập thể (Ủy ban nhân dân, Bộ, ngành, Tập đoàn, Tổng công ty, Hội đồng quản trị), đối tượng thanh tra cũng có thể là một cá nhân (Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Giám đốc sở, Giám đốc doanh nghiệp); đối tượng thanh tra cũng có thể là một hiện tượng, nội dung, lĩnh vực quản lý (quản lý nhà nước về y tế, giáo dục; cổ phần hóa, quản lý sử dụng vốn, tài sản công) hay một chính sách cụ thể (chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách người có công, chính sách về an sinh xã hội). Tuy nhiên, với cách hiểu thông thường thì đối tượng thanh tra được hiểu là chủ thể có quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định mà hoạt động thanh tra tác động đến nhằm xem xét, đánh giá, kết luận việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn hoặc một công việc cụ thể có liên quan trực tiếp tới nội dung thanh tra. Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành không đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra và đối tượng có liên quan đến hoạt động thanh tra. Tuy nhiên, trong khái niệm về thanh tra có đề cập đến nội hàm về đối tượng thanh tra. Theo đó, Luật Thanh tra năm 2010 quy định:Thanh tra nhà nướclà hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành (Khoản 1, Điều 3). Luật Thanh tra năm 2010 cũng đưa ra khái niệm về hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Cụ thể, Thanh tra hành chínhlà hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (Khoản 2, Điều 3); Thanh tra chuyên ngànhlà hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực (Khoản 3, Điều 3). Có thể nhận thấy, Luật Thanh tra 2010 đã có sự không thống nhất khi quy định về phạm trù về đối tượng thanh tra trong hoạt động thanh tra. Trong khái niệm về thanh tra nhà nước, đối tượng thanh tra được xác định là việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Trong khái niệm về hoạt động thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, đối tượng thanh tra được xác định là cơ quan, tổ chức, cá nhân. Luật Thanh tra năm 2010 không đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra (là chủ thể hay hoạt động), nhưng trong các điều luật khác hoặc các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành đều tiếp cận đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Cụ thể, Điều 10 Luật Thanh tra năm 2010 quy định về trách nhiệm và quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan: (i) Cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định về thanh tra, có quyền giải trình về nội dung thanh tra, có quyền và trách nhiệm khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. (ii) Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra phải cung cấp đầy đủ, kịp thời theo yêu cầu của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, cộng tác viên thanh tra, thành viên khác của Đoàn thanh tra và phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của thông tin, tài liệu đã cung cấp; có quyền và trách nhiệm khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Nghị định số 86/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra quy định thông báo về việc công bố quyết định thanh tra hành chính (Điều 25). Theo đó, (i) Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm thông báo đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra có trách nhiệm chuẩn bị văn bản để người ra quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền thông báo đến đối tượng thanh tra về việc công bố quyết định thanh tra. Thông báo phải nêu rõ thời gian, địa điểm, thành phần tham dự; (ii) Thành phần tham dự buổi công bố quyết định thanh tra gồm có đại diện lãnh đạo cơ quan chủ trì thanh tra, Đoàn thanh tra, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân là đối tượng thanh tra. Trong trường hợp cần thiết, Trưởng đoàn thanh tra mời đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự buổi công bố quyết định thanh tra. 2. Trên thực tế, cả về phương diện pháp lý và thực tiễn xác định đối tượng thanh tra còn có những tồn tại, hạn chế cụ thể như sau: Thứ nhất, pháp luật về thanh tra không quy định khái niệm về đối tượng thanh tra; đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra. Việc không đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra và đối tượng có liên quan trong các văn bản pháp luật về thanh tra đã ảnh hưởng, gây khó khăn tới việc xác định nội dung, phạm vi, thời hạn thanh tra; là một trong những nguyên nhân dẫn tới có hiện tượng một số Đoàn thanh tra mở rộng phạm vi thanh tra, tiến hành kiểm tra, xác minh tới nhiều đơn vị, doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, làm phát sinh tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. Trong các cuộc thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, việc xác định ranh giới đâu là đối tượng thanh tra, đâu là đối tượng có liên quan cần kiểm tra, xác minh là rất quan trọng. Đó là các cơ quan tham mưu, giúp việc cho chủ thể quản lý (cơ quan được giao quản lý nhà nước về lĩnh vực thanh tra); hoặc cơ quan được phân cấp thực hiện quản lý nhà nước; cơ quan quản lý về tài chính, thuế, kế hoạch đầu tư. Ngoài ra, các đối tượng liên quan mà cơ quan thanh tra tiến hành kiểm tra, xác minh (doanh nghiệp, cơ quan hải quan, cơ quan giám định, ngân hàng). Mỗi chủ thể này được giao quản lý hoặc thực hiện những công việc khác nhau và có quyền, nghĩa vụ khác nhau nên việc không quy định rõ đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan sẽ khó xác định được chính xác phạm vi, nội dung, thời hạn thanh tra; trong việc xây dựng kế hoạch thực hiện từng nội dung thanh tra, kiểm tra, xác minh. Thứ hai, pháp luật về thanh tra chưa có hướng dẫn cụ thể về kiểm soát xung đột lợi ích trong hoạt động thanh tra. Theo quy định pháp luật thanh tra, không bố trí làm Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra đối với những người có bố đẻ, mẹ đẻ; bố vợ hoặc bố chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng; vợ hoặc chồng, con ruột, con rể hoặc con dâu, anh, chị, em ruột là đối tượng thanh tra hoặc có mối quan hệ thân thiết với đối tượng thanh tra làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hoạt động thanh tra[1]. Việc quy định nêu trên gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện vì không xác định được cụ thể đối tượng thanh tra khi ban hành quyết định thanh tra. Nếu trong quyết định thanh tra xác định thanh tra việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản công tại Tập đoàn A thì Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Kế toán trưởng, trưởng các Ban tài chính, nhân sự, kế hoạch, Giám đốc các Công ty thành viên là đối tượng thanh tra hay toàn thể cán bộ, nhân viên của Tập đoàn là đối tượng thanh tra. Quy định về không bố trí cán bộ thanh tra tham gia Đoàn thanh tra khi có người thân là đối tượng thanh tra là không phù hợp, không có cơ sở để xác định như thế nào là người thân của cán bộ thanh tra. Trên thực tế, có những mối quan hệ họ hàng với cán bộ thanh tra nhưng lại không có mức độ thân thiết bằng những mối quan hệ xã hội khác khi cán bộ thanh tra có những ràng buộc nhất định trong các mối quan hệ xã hội. Đây là những vấn đề cần có quy định chi tiết để thực hiện trên thực tế. Thứ ba, pháp luật về thanh tra chưa xác định đầy đủ, rõ ràng về quyền của đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra; chưa có cơ chế pháp lý đầy đủ, chặt chẽ để đối tượng thanh tra thực hiện quyền của mình trong hoạt động thanh tra. Pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về quyền của các đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra mà chỉ quy định nghĩa vụ của các chủ thể này trong việc cung cấp hồ sơ, tài liệu cho Đoàn thanh tra; nghĩa vụ thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra. Về nguyên tắc, quyền và nghĩa vụ phải đi cùng nhau. Pháp luật thanh tra quy định đối tượng có liên quan phải cung cấp hồ sơ, tài liệu; thực hiện kết luận, kiến nghị thanh tra thì phải quy định cho họ quyền được từ chối cung cấp hồ sơ, tài liệu khi Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu vượt quá nội dung, phạm vi thanh tra, khi Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp trong khoảng thời gian không thể cung cấp kịp thời; quyền giải trình về những vấn đề được nêu trong dự thảo Kết luận thanh tra khi kết luận thanh tra đề cập đến những vấn đề liên quan đến họ (tương tự như quyền của đối tượng thanh tra); quyền phản ánh, tố cáo đối với hành vi phạm của cán bộ thanh tra trong hoạt động thanh tra; kiến nghị, khiếu nại đối với Kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra. Về thực hiện quyền đối tượng thanh tra, cụ thể là thực hiện quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra. Pháp luật thanh tra chưa có cơ chế riêng biệt để đối tượng thanh tra thực hiện quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra một cách thuận lợi, phù hợp với tính chất hoạt động của Đoàn thanh tra. Theo đó, việc khiếu nại đối với kết luận thanh tra được thực hiện theo pháp luật về khiếu nại. Nghị định 86/2011/NĐ-CP quy định Thủ trưởng cơ quan thanh tra, Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước đã có kết luận hoặc quyết định xử lý về thanh tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Quy định này cũng tương tự như thẩm quyền giải quyết trong khiếu nại hành chính, đó là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị có quyết định hành chính bị khiếu nại thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Tuy nhiên, trong hoạt động thanh tra, thẩm quyền ra quyết định thanh tra thuộc hai chủ thể khác nhau: Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước và Thủ trưởng cơ quan thanh tra. Theo Luật Khiếu nại năm 2011, trình tự, thủ tục khiếu nại và giải quyết khiếu nại đối với các chủ thể là khác nhau, được xác định theo thứ bậc hành chính. Nếu là Thủ trưởng cơ quan thanh tra ra quyết định thanh tra, thì họ là người giải quyết khiếu nại đối với kết luận thanh tra do mình ban hành (lần một) và thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai thuộc về Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp. Điều đó cho thấy, việc giải quyết khiếu nại đối với kết luận thanh tra (xét về bản chất có nội dung giống nhau) lại do hai cấp khác nhau giải quyết và điều đó có thể dẫn đến kết quả giải quyết là khác nhau và không đảm bảo sự bình đẳng đối với đối tượng thanh tra. Thứ tư, còn hiện tượng cán bộ, công chức cố tình thực hiện thanh tra vượt quá phạm vi, nội dung, đối tượng nhằm mục đích vụ lợi. Trên thực tế cho thấy, với những quy định không đầy đủ, rõ ràng về đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan là một trong những nguyên nhân dẫn tới cán bộ thanh tra trong hoạt động của mình đã lợi dụng sự thiếu đầy đủ của pháp luật để thực hiện các hành vi tham nhũng, tiêu cực. Cụ thể là việc không xác định đầy đủ các đối tượng có liên quan đến nội dung thanh tra trong quyết định thanh tra, kế hoạch thanh tra khi tiến hành thanh tra để thực hiện việc kiểm tra, xác minh với nhiều đối tượng; kiểm tra, xác minh tràn lan với nhiều đối tượng khác nhau. Những hành vi thanh tra, kiểm tra, xác minh vượt quá phạm vi, nội dung thanh tra là nhằm mục đích nhũng nhiễu, vòi vĩnh của cán bộ thanh tra đối với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là đối tượng có liên quan đến hoạt động thanh tra. Điều này dẫn đến cuộc thanh tra không có trọng tâm, trọng điểm; việc thanh tra vượt phạm vi, nội dung, đối tượng thanh tra; Thủ trưởng cơ quan thanh tra khó quản lý thành viên Đoàn thanh tra, có nguy cơ dẫn đến hành vi tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. 3. Việc xác định đầy đủ, rõ ràng và thống nhất về đối tượng thanh tra có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra; góp phần bảo đảm tính công khai, minh bạch và phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. Để thực hiện mục tiêu này, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây: Thứ nhất, quy định khái niệm về đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan trong Luật Thanh tra và các văn bản hướng dẫn thi hành. Hiện tại, pháp luật về thanh tra không quy định khái niệm về đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan. Khoản 3, Điều 3 Dự thảo Thông tư quy định các quy trình nghiệp vụ về thanh tra, tiếp công dân, xử lý đơn, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng (dự thảo Thông tư) do Thanh tra Chính phủ chủ trì soạn thảo đưa ra khái niệm về đối tượng thanh tra như sau: Đối tượng thanh tra là cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nhà nước cùng cấp với cơ quan được giao tiến hành cuộc thanh tra và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác được xác định trong quyết định thanh tra. Khái niệm về đối tượng thanh tra theo dự thảo Thông tư có điểm tương đồng với cách tiếp cận của bài viết là xác định đối tượng thanh tra là chủ thể (tổ chức hoặc cá nhân). Tuy nhiên, trong khái niệm nêu trên chưa phù hợp ở việc xác định đối tượng thanh tra thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nhà nước cùng cấp với cơ quan được giao tiến hành cuộc thanh tra là chưa đầy đủ. Các doanh nghiệp tư nhân cũng là đối tượng thanh tra của các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính (thanh tra do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp giao; thanh tra việc chấp hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng) nhưng đối tượng này không thuộc thẩm quyền quản lý của chủ thể này; các Doanh nghiệp Nhà nước hiện giờ cũng tách bạch rõ ràng chức năng quản lý nhà nước theo cơ chế bộ chủ quản trước đây và chức năng đại diện vốn chủ sở hữu tại doanh nghiệp. Trong khi đó, việc thực hiện cơ chế phân cấp, uỷ quyền đã tạo ra những vấn đề về mặt quản lý khác nhau, nhiều khi Uỷ ban nhân dân cấp huyện cũng là đối thượng thanh tra của Thanh tra Chính phủ khi được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phân cấp thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể được pháp luật quy định - và rõ ràng Uỷ ban nhân dân cấp huyện không phải là đối tượng quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp với Thanh tra Chính phủ. Vì vậy, đối tượng thanh tra nên được tiếp cận theo hướng là cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp với cơ quan được giao tiến hành thanh tra và các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan trực tiếp tới nội dung thanh tra. Đối tượng thanh tra được xác định trong quyết định thanh tra hoặc các văn bản có liên quan đến hoạt động thanh tra; đối tượng thanh tra phải được xác định rõ ràng, đầy đủ và được công khai khi công bố quyết định thanh tra. Thứ hai, quy định đầy đủ các vấn đề pháp lý về đối tượng có liên quan trong hoạt động thanh tra. Luật Thanh tra cần quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của đối tượng có liên quan trong việc: Quyền từ chối cung cấp thông tin, tài liệu cho Đoàn thanh tra khi Đoàn thanh tra không thực hiện đầy đủ yêu cầu, trình tự thủ tục về cung cấp thông tin trong hoạt động thanh tra; yêu cầu cung cấp thông tin vượt quá phạm vi, nội dung thanh tra; quy định quyền giải trình về những vấn đề được nêu trong dự thảo Kết luận thanh tra khi kết luận thanh tra đề cập đến những vi phạm của họ (tương tự như quyền của đối tượng thanh tra); quyền phản ánh, tố cáo đối với hành vi phạm của cán bộ thanh tra trong hoạt động thanh tra; quyền kiến nghị, khiếu nại đối với Kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh tra. Luật Thanh tra cần thể chế hoá chế tài xử lý đối với đối tượng có liên quan cố tình không hợp tác với Đoàn thanh tra trong việc cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hoạt động thanh tra khi được Đoàn thanh tra yêu cầu cung cấp theo đúng trình tự, thủ tục; nội dung thông tin, tài liệu có liên quan trực tiếp tới hoạt động thanh tra và trong phạm vi quản lý của chủ thể này; chế tài xử lý trong trường hợp không thực hiện đầy đủ kết luận thanh tra. Thứ ba, xây dựng cơ chế khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra. Pháp luật thanh tra hiện chưa có cơ chế riêng biệt để đối tượng thanh tra thực hiện quyền khiếu nại đối với kết luận thanh tra một cách thuận lợi, phù hợp với tính chất hoạt động của Đoàn thanh tra. Theo quy định hiện hành, việc khiếu nại đối với kết luận thanh tra được thực hiện theo pháp luật về khiếu nại, quy định này là không phù hợp với những đặc thù của hoạt động thanh tra. Vì cơ chế giải quyết khiếu nại theo Luật Khiếu nại thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan hành chính, trong khi khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong hoạt động thanh tra cần được giải quyết trong phạm vi cơ quan thanh tra vì hoạt động thanh tra có những đặc thù mang tính nghiệp vụ và cơ chế hoạt động độc lập tương đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Vì vậy, Thanh tra Chính phủ cần ban hành cơ chế giải quyết khiếu nại riêng biệt trong hoạt động thanh tra, trong đó quy định thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu của Trưởng đoàn thanh tra, thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai là của Thủ trưởng cơ quan thanh tra. Cơ chế giải quyết khiếu nại cũng cần quy định rõ vai trò, trách nhiệm của các đơn vị, bộ phậm tham mưu (Giám sát, thẩm định dự thảo kết luận thanh tra; bộ phận Pháp chế, Tổ chức cán bộ) trong việc kiểm tra, xác minh vụ việc khiếu nại, tố cáo. Thứ tư, tăng cường trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra trong việc kiểm soát hoạt động thanh tra. Trên thực tế, còn hiện tượng cán bộ, công chức cố tình thực hiện thanh tra vượt quá phạm vi, nội dung, đối tượng nhằm mục đích vụ lợi. Biểu hiện phổ biến của tình trạng này là Đoàn thanh tra đưa nhiều đơn vị, doanh nghiệp là những đối tượng có liên quan đến nội dung thanh tra để tiến hành thanh tra, kiểm tra, xác minh; yêu cầu đối tượng thanh tra, đối tượng có liên quan cung cấp nhiều hồ sơ, tài liệu để tiến hành kiểm tra, xác minh nhưng không đưa vào biên bản làm việc. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự quản lý chưa chặt chẽ của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra; có sự bao che, làm ngơ hay thiếu trách nhiệm trong quản lý của các chủ thể này. Thực tế, bằng các biện pháp quản lý, biện pháp nghiệp vụ, Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra hoàn toàn có thể kiểm soát hoạt động của các thành viên Đoàn thanh tra thông qua việc kiểm tra kế hoạch làm việc của các thành viên; phê duyệt danh sách các đối tượng cần kiểm tra, xác minh; yêu cầu Đoàn thanh tra xây dựng kế hoạch kiểm tra, xác minh đối với những đối tượng có liên quan, có báo cáo kết quả cụ thể việc kiểm tra, xác minh; ghi nhật ký Đoàn thanh tra theo ngày làm việc; nắm thông tin từ các cơ quan quản lý, từ đối tượng thanh tra đối với hoạt động của Đoàn thanh tra... Vì vậy, việc kiểm soát của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra nếu được làm tốt sẽ hạn chế được việc cán bộ, công chức thực hiện ngoài phạm vi, nội dung, đối tượng thanh tra, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. Do đó, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của Người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra trong kiểm soát hoạt động thanh tra, góp phần phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động thanh tra. ThS. Lê Văn Đức [1] Điều 9 Thông tư số 05/2014/TT-TTCP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra. |