Triết lý sống quân bình là gì năm 2024
Trong triết học, trạng thái quân bình từ suy tưởng là tình trạng cân bằng hoặc tình trạng gắn kết giữa một tập hợp những niềm tin. Trạng thái này đạt được từ một quá trình tự điều chỉnh trong suy nghĩ. Điều chỉnh này là điều chỉnh các nguyên tắc chung và các quan điểm riêng của cá nhân. Tuy không sử dụng thuật ngữ trên, nhưng triết gia Nelson Goodman là người đầu tiên giới thiệu phương pháp quân bình từ suy tưởng như một phương pháp chứng minh các nguyên tắc của logic quy nạp. Thuật ngữ "quân bình từ suy tưởng" do John Rawls đặt ra sau khi nghiên cứu phép biện chứng elenchus của Sokrates và được nhắc đến nhiều lần trong tác phẩm nổi tiếng "Luận thuyết về công lý" của ông như một phương pháp dẫn tới các nguyên tắc của công lý. John Rawls lập luận rằng con người có một "ý thức về công lý". Ý thức này là một nguồn gốc cho động cơ và cách đánh giá/phán xét đạo đức. Theo Rawls, chúng ta bắt đầu với "những đánh giá được cân nhắc" bắt nguồn từ ý thức về công lý. Đó có thể là những đánh giá về các nguyên tắc đạo đức chung/tổng quát (ở bất kỳ cấp độ nào của tính tổng quát) hoặc những trường hợp đạo đức cụ thể. Nếu đánh giá của chúng ta còn có điểm mâu thuẫn, chúng ta sẽ điều chỉnh niềm tin của mình cho đến khi chúng đạt được "sự quân bình", tức là khi những niềm tin đó đạt được độ bền vững, không xung đột với nhau, và đưa ra được những hướng dẫn có tính khả thi và nhất quán cho hành vi. Rawls cho rằng một tập hợp các niềm tin đạo đức trong trạng thái "quân bình từ suy tưởng" lý tưởng mô tả và là đại diện cho những nguyên tắc cơ bản của ý thức về công lý của con người. Ví dụ cụ thể về phương pháp quân bình từ suy tưởng sẽ giúp bạn đọc dễ hiểu hơn. Giả sử Zachary tin vào nguyên tắc chung/tổng quát là luôn làm theo những điều răn trong Kinh thánh. Giả sử, đồng thời, Zachary cũng có suy nghĩ của riêng mình là ném đá một ai đó đến chết chỉ vì người đó hành nghề mê tín dị đoan là một hành vi vô đạo đức. Hai quan điểm trên có thể xung đột với nhau. Trong trường hợp này, Zachary sẽ có một số hướng lựa chọn: bỏ qua nguyên tắc chung/tổng quát để tìm một nguyên tắc khác phù hợp hơn (ví dụ, thay vì luôn tuân theo các điều răn trong Kinh thánh, giờ sẽ chỉ tuân theo Mười Điều răn), thay đổi nguyên tắc chung (ví dụ, chọn một bản dịch Kinh thánh khác, hoặc quyết định hiểu các lời răn theo nghĩa khác), hoặc thay đổi quan điểm cá nhân về vấn đề trên sao cho phù hợp với nguyên tắc chung (bằng cách nghĩ rằng phù thủy đáng bị xử tử). Dù với quyết định nào, Zachary cũng tiến gần đến trạng thái quân bình từ suy tưởng. Một số triết gia cho rằng, "sự quân bình từ suy tưởng" là một khái niệm không tiến bộ vì nó thể hiện sự thỏa hiệp trong suy nghĩ. Hãy phân tích ưu điểm và hạn chế của văn hóa làng xã trong sự nghiệp công nghiệp hóa ở Việt Nam hiện nay
Related documents
Preview text####### BỘ TƯ PHÁP ####### TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI BÀI TẬP NHÓMMÔN:ĐẠI CƯƠNG VĂN HOÁVIỆT NAMĐỀ BÀI SỐ 4:“Nội dung và những biểu hiện của triết lýÂm – Dương trong đời sống người Việt Nam”####### LỚP : 4625 ####### NHÓM : 06 Hà Nội, 2021 MỤC LỤCPHẦN MỞ ĐẦU............................................................................PHẦN NỘI DUNG........................................................................
####### 1. Nguồn gốc của triết lý Âm – Dương........................................ ####### 2. Nội dung của triết lý Âm – Dương........................................... II. Biểu hiện của triết lí Âm Dương trong đời sống người ViệtNam............................................................................................. 5 ####### 1. Biểu hiện triết lý Âm – Dương trong tính cách người ####### Việt........................................................................................... ####### 2. Biểu hiện triết lý Âm – Dương trong giao tiếp của người ####### Việt........................................................................................... ####### 3. Biểu hiện triết lý Âm – Dương các lĩnh vực nghệ thuật.......... ####### 4. Biểu hiện triết lý Âm – Dương ở nhu cầu ăn, mặc, ở............. TỔNG KẾT...................................................................................TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................NỘI DUNG
cứng thì nước là âm còn đất là dương, nhưng về độ linh động thì đất là âm còn nước lại là dương. Quy luật về quan hệ: Quy luật về quan hệ của các thành tố: Âm – Dương gắn bó mật thiết, vận động và chuyển hoá cho nhau; âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương và dương phát triển đến cùng cực thì chuyển thành âm. Ví dụ: Từ nước lạnh (âm), nếu nóng lên đến cực độ sẽ bốc hơi lên trời (mặt trời). Ngược lại, nếu lạnh đến cùng cực thì nước sẽ thành băng (âm). Tất cả các quy luật trên đều được ẩn ý trong biểu tượng Âm – Dương. Biểu tượng Âm – Dương với hai nửa đối xứng ôm trọn lấy nhau, và trong mỗi phần đối xứng lại có một chấm tròn màu đối lập. Hai nửa đen trắng đối xứng ôm nhau là chỉ âm và dương, hai chấm tròn màu đối lập bên trong mỗi phần là chỉ trong âm có dương, trong dương có âm. II. Biểu hiện của triết lí Âm – Dương trong đời sống người Việt Nam: 1. Biểu hiện triết lý Âm – Dương trong tính cách người Việt: “Triết lý Âm – Dương là sản phẩm trừu tượng hoá từ ý niệm và ước mơ của cư dân nông nghiệp về sự sinh sản của hoa màu và con người”(1). Triết lý này biểu hiện trong tính cách người Việt chủ yếu qua tư duy lưỡng phân lưỡng hợp và triết lý sống quân bình.
ông Tơ – bà Nguyệt đã thay cho ông Tơ Hồng, thần mai mối của Trung Hoa, hay Phật Ông – Phật Bà (Bụt đực – Bụt cái) thay vì chỉ là Phật Ông như ở Ấn Độ,... Từ những khái niệm vay mượn đơn độc, người dân xưa đã ghép đôi ghép cặp cho chúng, biến những khái niệm ấy thành của ta, làm nên bản sắc văn hoá dân tộc ta. e) Biểu tượng Âm – Dương với hai nửa đối xứng ôm trọn lấy nhau, và trong mỗi phần đối xứng lại có một chấm tròn màu đối lập dùng phổ biến hiện nay mới được đặt ra từ đầu Công nguyên. Tuy nhiên, theo PGS Trần Ngọc Thêm, từ trước đó người Việt đã có một biểu tượng Âm – Dương, đó chính là biểu tượng vuông – tròn. Biểu tượng của dương là tròn, biểu tượng của âm là vuông. Có vuông có tròn tức là có âm có dương; nói “vuông – tròn” là nói đến sự hoàn thiện. Quan niệm này thể hiện rõ nét qua hàng loạt câu thành ngữ, ca dao, trên mặt trống đồng Yên Bồng (Hoà Bình), trống Thôn Mống (Ninh Bình), trên tiền đồng cổ Việt Nam và trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Mẹ tròn con vuông. Ba vuông xứng với bảy tròn Đời cha vinh hiển, đời con sang giàu. g) Người Việt Nam còn nhận thức rõ về HAI QUY LUẬT của triết lý Âm
Năng ăn hay đói, năng nói hay lầm. Trong cuộc sống, chúng ta sẽ luôn cố gắng để không làm mất lòng nhau. Còn trong việc ở thì luôn tìm cách tạo nên sự hài hòa với môi trường thiên nhiên xung quanh. Cũng chính từ triết lý quân bình Âm – Dương này mà người Việt đã xây dựng được lối sống lạc quan, tích cực, luôn hướng về phía trước: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. kết hợp với cách ứng xử linh hoạt và khả năng thích nghi cao trước mọi biến cố, hoàn cảnh của dân tộc Việt: Ăn theo thuở, ở theo thì. Bên cạnh đó, sự cân bằng Âm – Dương không chỉ được áp dụng cho người sống mà còn cho cả người đã khuất. Như trong những ngôi mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa), các đồ vật bằng gỗ (dương) sẽ được đặt ở phía bắc (âm) còn đồ gốm (âm) thì sẽ đặt ở hướng nam (dương). Đây chính là cách sắp xếp có dụng ý nhằm tạo ra sự cân bằng Âm – Dương. Chung quy lại, sự vận dụng đúng đắn và sâu sắc các quy luật của triết lý Âm
Đối với một quốc gia phương Đông với loại hình văn hóa gốc nông nghiệp, nước là một phần không thể thiếu trong cuộc sống con người. Vì lẽ đó, các công trình kiến trúc của nước ta luôn gắn liền với cảnh quan sông nước. Đây chính là sản phẩm của triết lý Âm – Dương, với sự hài hoà giữa độ cao của công trình (dương) và độ sâu của hồ, ao (âm). Ngoài ra sự phản chiếu hình ảnh của công trình trên mặt nước chính là sự đối đãi âm dương, cho thấy sự phát triển của vạn vật. Kiến trúc thể hiện sâu sắc và rõ nét nguyên tắc này là kiến trúc đình làng – nơi gắn kết của cộng đồng làng xã, nơi quyết định vận mệnh của cả cộng đồng theo tâm linh. Không chỉ có trong việc tổ chức không gian cảnh quan, triết lý Âm – Dương còn thể hiện ở sự giao hòa giữa hai mặt đối lập nhau: các không gian cao – thấp, trên – dưới, trước – sau,..ải được thiết kế, phối hợp sao cho thật hài hòa để tạo nên tính nhịp điệu trong không gian của công trình. b) Kết hợp giữa phong thuỷ và quy thức kiến trúc: b. Quy thức kiến trúc là gì? Quy thức kiến trúc là một trật tự hoặc những quy cách thống nhất về kích thước, tương quan tỉ lệ giữa các chi tiết, thành phần kiến trúc trong một công trình kiến trúc. b. Sự kết hợp giữa phong thuỷ và quy thức kiến trúc: Sự kết hợp giữa phong thuỷ và quy thức kiến trúc là một trong những biểu hiện chính của triết lý Âm – Dương trong nghệ thuật kiến trúc. Một ngôi nhà có dương khí hoặc âm khí quá vượng đều không tốt, vì nó có cả mặt lợi và mặt hại. Tốt nhất ngôi nhà cần có sự cân bằng yếu tố Âm – Dương, thiếu chỗ nào phải bù vào chỗ đó. Trong kiến trúc Việt có sản phẩm sáng tạo mang đặc trưng của vùng văn hóa nông nghiệp là kết cấu khung nhà gỗ. Trong đó, ngôi nhà được chia thành các gian chứ không phải là phòng, điều này cũng thể hiện tính cộng đồng của người Việt. Ngôi nhà sẽ có 4 tới 6 hàng cột, trên cột là xà ngang để liên kết các cột, tạo nên sự vững chãi. Bên cạnh đó kẻ, bẩy, hoành,..úng đều có điểm chung là được nối với nhau bởi mộng hoặc chốt. Đây chính là yếu tố Âm – Dương được ứng dụng bởi mộng. Mộng được chia làm 2 loại là: mộng âm và mộng dương. Mộng âm là một thanh gỗ lõm, còn mộng dương là một thanh gỗ lồi. Ghép mộng đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ của người thợ vì ghép mộng là phải ghép khít đến từng mm, như thế mới tạo ra sự vững chắc, có khả năng chịu lực tốt lại bền hơn bất kỳ loại keo dính nào. Như vậy, triết lý Âm – Dương đã góp phần không nhỏ vào kiến trúc Việt, đặc biệt là trong kiến trúc cổ. Triết lý Âm – Dương đã được ông cha ta tiếp thu và phát huy, cùng với tính đặc trưng của vùng nông nghiệp đã tạo nên bản sắc kiến trúc rất phương Đông và cũng rất Việt Nam, góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung. 3. Trong âm nhạc: 3.2. Biểu hiện của triết lý Âm – Dương ở loại hình âm nhạc và nhạc cụ (Ca trù): Ca trù là loại hình âm nhạc truyền thống của dân tộc, đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Có nhiều yếu tố mang tính Âm – Dương hội tụ ở ca trù, trong đó tiêu biểu là phách và âm thanh do gõ phách. Phách là nhạc cụ được sử dụng trong ca trù, gồm hai cái dùi. Hai dùi này có tên gọi chuyên ngành là phách cái và phách con. Trong đó, quan điểm cái với con thể hiện rằng nam và nữ là hai giới khác nhau nhưng bổ sung cho nhau. Còn âm thanh do gõ phách cũng theo cặp: tiếng cao
Với mục tiêu tìm hiểu về nội dung và biểu hiện của triết lý Âm – Dương trong đời sống của người Việt Nam, nhóm chúng em rút ra một vài nhận xét như sau: Triết lý Âm – Dương du nhập và ảnh hưởng sâu sắc đến mọi mặt đời sống của người dân Việt Nam. Nó tác động đến tính cách, lối sống người Việt, cách người Việt giao tiếp và đến cả một số lĩnh vực nghệ thuật. Triết lý Âm – Dương mặc dù là yếu tố ngoại sinh, song người dân nước ta đã vận dụng sáng tạo nó trong nhiều mặt đời sống, khiến nó dung nhập và góp phần làm nên bản sắc văn hoá dân tộc mình. Triết lý Âm – Dương đã góp phần làm nên văn hoá dân tộc suốt hàng thiên niên kỉ. Tuy nhiên trong thời đại mới – thời đại của toàn cầu hoá, nó vừa giữ được những giá trị cốt lõi, vừa tồn tại nhiều hạn chế. Hạn chế đầu tiên là những nhận thức phiến diện, tiếp thu lệch lạc thuyết Âm - Dương dẫn đến hệ luỵ khôn lường. Bên cạnh đó, triết lý sống quân bình nhiều khi dẫn đến tư tưởng bình quân chủ nghĩa, sự tuỳ tiện, ứng phó, sự tự mãn, thiếu đột phá,... Chính vì thế, nhóm chúng em đề xuất những giải pháp để khắc phục một phần hạn chế và tiếp tục duy trì, phát huy những giá trị tốt đẹp mà triết lý Âm |