Lê hoàn tên thật là gì

Lê Đại Hành 黎 大 行 húy Lê Hoàn 黎 桓 (941–1005) là vị hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê và trị vì quốc gia Đại Cồ Việt suốt 24 năm tại kinh đô Hoa Lư. Vua mất tại điện Trường Xuân, thọ 65 tuổi, đền thờ và lăng mộ hiện còn tại Ninh Bình.

Tiểu sử

Sử sách ghi Lê Hoàn sinh ngày rằm tháng 7 năm Tân Sửu (941), cha tên là Lê Mịch 黎 覔, mẹ họ Đặng 鄧 氏. Bản thần tích lưu tại làng Ứng Liêm (Hà Nam) thì viết: Lê Hoàn sinh ở xã Trường Yên, Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Ông bà nội tên là Lê Lộc và Cao Thị Khương; song thân tên là Lê Mịch và Đặng Thị Khiết; nhà nghèo nên chuyển về xã Ninh Thái, Thanh Liêm, Hà Nam làm nghề chài lưới. Ngày mùng 10 tháng giêng năm Nhâm Dần (29-1-942) sinh ra ngài. Năm lên 7 tuổi, ngài mồ côi cả cha lẫn mẹ, được quan án Lê Đột nhận làm con nuôi [1].

Lớn lên Lê Hoàn theo giúp Nam Việt Vương Đinh Liễn, sau được Đinh Tiên Hoàng phong đến chức Thập đạo tướng quân. Năm 979, hoạn quan Đỗ Thích giết vua Đinh và con cả Đinh Liễn. Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền cùng Lê Hoàn rước con thứ Đinh Toàn lên ngôi hoàng đế lúc 6 tuổi và tôn mẹ Đinh Toàn là Dương Vân Nga làm thái hậu.

Lê Hoàn làm nhiếp chính, xưng là phó vương. Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp nghi ngờ Hoàn sẽ cướp ngôi bèn dấy binh chia hai đường thủy bộ tiến về kinh đô. Lê Hoàn đánh thắng ở Tây Đô, Đinh Điền, Nguyễn Bặc bỏ chạy, đem quân thủy ra đánh. Lê Hoàn nhân chiều gió phóng lửa đốt thuyền, chém Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc đóng cũi đưa về Hoa Lư, sau đem chém. Phạm Hạp chạy về làng Cát Lợi ở Bắc Giang, Lê Hoàn đuổi theo, bắt sống mang về kinh sư.

Nhân cớ đó, nước Tống cử binh xâm lược Đại Cồ Việt tháng 8-980. Thái hậu sai Lê Hoàn đi chống, phong Phạm Cự Lạng làm Đại tướng. Phạm Cự Lạng dẫn các tướng khác vào cung, khuyên triều đình nên lập Lê Hoàn làm vua, thái hậu đồng ý. Ngài lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, giáng phong Đinh Toàn làm Vệ Vương, dùng ngoại giao mềm mỏng để làm chậm việc khởi chiến.

Phá Tống

Tháng 12-980 quân Tống xâm lược, trận đầu thắng hơn 1 vạn quân Việt. Tháng 2-981, Hầu Nhân Bảo, Tôn Hoàng Hưng đến Lạng Sơn. Lê Hoàn tự mình làm tướng, cho xây thành Bình Lỗ, chẹn ải Chi Lăng. Mùa hạ năm 981, quân Tống giao chiến chém được hơn 1000 quân Việt, bắt được 200 chiếc thuyền, trú tại Ba Bộ. Hầu Nhân Bảo cùng đạo tiền quân tiến sâu vào. Tôn Toàn Hưng dẫn quân thủy và bộ tới làng Đa La không gặp Hầu Nhân Bảo, bèn trở về Ba Bộ.

Vua sai người trá hàng, chém Hầu Nhân Bảo. Trần Khâm Tộ nghe tin quân thủy thua trận, dẫn quân về. Lê Hoàn thừa thắng đuổi đánh, quân Khâm Tộ thua to, chết đến quá nửa. Vua bắt sống đại tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân đưa về Hoa Lư. Từ đó trong nước rất yên. Bầy tôi dâng tôn hiệu cho vua là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng Đế.

Ngài bèn sai sứ sang nhà Tống cống các đồ thổ sản và dâng biểu tạ lỗi. Quan Giang Nam chuyển vận sứ của nhà Tống là Hứa Trọng Tuyên đem việc Nhân Bảo thua chết tâu lên. Vua Tống xuống chiếu rút quân về, sai sứ quở trách bọn Lưu Trừng, Giả Thực, Vương Soạn. Trừng ốm chết, Soạn bị giết ở Ung Châu, Tôn Hoàng Hưng cũng bị giết bêu đầu ở chợ.

Bình Chiêm

Năm 982, Lê Hoàn cử Ngô Tử Canh và Từ Mục đi sứ Chiêm Thành bị vua Chiêm là Bê Mi Thuế (Paramesvaravarman) bắt giữ. Lê Hoàn sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh, chém Bê Mi Thuế tại trận, bắt sống nhiều quân sĩ cùng hàng trăm tài nữ trong cung và một nhà sư Thiên Trúc [Ấn Độ], lấy các đồ quý đem về, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư.

Tống sử cho biết Lê Hoàn đã sai sứ dâng 93 tù binh Chiêm Thành cho vua Tống nhằm chứng tỏ thực lực của Đại Cồ Việt. Khi nhà vua đi đánh Chiêm, qua núi Đồng Cổ đến sông Bà Hòa, đường núi hiểm trở khó đi, bèn sai đào hải cảng mới. Năm 990, Lê Hoàn lại đem quân đánh vào châu Địa Lý (Chiêm Thành), bắt được nhiều quân dân và tịch thu nhiều của cải. Năm 995 và 997, quân Chiêm lại kéo sang đánh phá biên giới, Lê Hoàn phải cho quân đánh đuổi.

Chính trị

Nhà Tiền Lê chia mười đạo của vua Đinh làm lộ, phủ, châu. Hiện không rõ danh hiệu và vị trí các lộ, phủ, châu như thế nào, sử cũ vẫn dùng các tên châu cũ do nhà Đường đặt ra. Lê Hoàn lên ngôi vẫn đóng đô ở thành Hoa Lư, năm đầu đặt các chức thái sư, thái úy, tổng quản, đô chỉ huy sứ. Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại tổng quản tri quân dân, Đinh Thừa Chính làm Nha nội đô chỉ huy sứ. Năm 986 đặt binh Túc vệ, gọi là Thân quân, trên trán đều thích chữ Thiên Tử Quân, về sau lệ cấm quân thích chữ ở trán bụng, đùi bắt đầu từ đây. Năm 988, định ngũ quân, chia tướng hiệu làm hai ban.

Lê Hoàn phong cho các con ra các trấn địa phương, năm 989, phong cho Thái tử Thau làm Kình Thiên Đại Vương ở kinh đô Hoa Lư; con thứ hai tên Ngân làm Đông Thành vương, theo suy đoán của Đào Duy Anh, có lẽ được ban cho đất ở phía đông kinh thành; con thứ ba tên Việt làm Nam Phong vương. Năm 991, phong cho con thứ tư tên Đinh làm Ngự Man vương, đóng ở Phong Châu; cho con thứ sáu là Cân làm Ngự Man vương, đóng ở trại Phù Lan (nay là xã Phù Vệ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương). Năm 922 phong cho con thứ bảy là Tung làm Định Phiên vương, đóng ở thành Tử Dinh trên sông Ngũ Huyện (chảy qua các huyện Yên Lãng, Kim Anh, Đông Ngàn, Yên Phong, Tiên Du vào sông Cầu); cho con thứ tám là Tương làm phó vương, đóng ở sông Đỗ Động, sông Nhuệ; cho con thứ chín là Kinh làm Trung Quốc vương, đóng ở Càn Đà, huyện Liên Mạt, nay là Tiên Lữ, Hưng Yên. Năm 994 phong cho con thứ mười hai tên Mang làm Nam Quốc vương, đóng ở châu Vũ Lang, thuộc Thanh Hóa. Năm 995 phong cho con thứ mười một tên Đề làm Hành Quân vương, đóng ở châu Cổ Lãm, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh, cho con nuôi làm Phù Đới vương, đóng ở Phù Đới hương, thuộc Hải Dương.

Quân sự
Ngoài các cuộc chiến với nước Tống, nước Chiêm, Lê Hoàn còn phải đối phó với các cuộc nổi loạn trong nước và nhà vua thực hiện nhiều cuộc chinh phạt mở mang bờ cõi. Năm 989, ngài sai viên Quảng giáo là Dương Tiến Lộc đi thu thuế ở châu Hoan, châu Ái. Lộc làm phản, đem người hai châu ấy xin theo Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Lê Hoàn đem quân đánh Hoan, Ái, đuổi bắt được Lộc và giết không biết bao nhiều người.

Năm 995, Lê Hoàn cho quân vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu (nước Tống), đánh phá cư dân, cướp bóc lương thực, rồi bỏ đi. Mùa hạ cùng năm, vua lại dẫn 5000 binh Tô Châu vào cướp Lộc Châu, thuộc huyện Ung Châu, giao chiến với quân Tống do Tuần kiểm Dương Văn Kiệt chỉ huy, sau đó phải trở về. Năm 996, vua đem quân đi đánh được bốn động Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng. Tháng 7-996 vua thân đi đánh quân phản ở Đỗ Động Giang, bắt được đồ đảng đem về kinh sư.

Năm 999, Lê Hoàn thân đi đánh Hà Động, tất cả 49 động và phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên. Từ đó các châu động đều quy phục. Năm 1000, vua xuống chiếu đi đánh Trịnh Hàng ở châu Phong, Trường Lệ, Đan Trường Ôn, khiến cho nhóm này phải chạy vào vùng núi Tản Viên.

Năm 1001, Lê Hoàn thân đi đánh quân Cử Long. Địch sợ mà rút lui. Lê Hoàn bèn đi thuyền vào Cùng Giang để đuổi. Quân Cử Long bày trận hai bên bờ chống lại, quan quân bị hãm ở giữa sông, Vệ Vương Đinh Toàn trúng tên chết tại trận. Ngài kêu trời ba tiếng rồi thúc quân đánh, quân Cử Long tan vỡ. Năm 1003, vua đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái. Người Đa Cái làm phản, vua cho chém đầu để rao.

Kinh tế
Năm 987, mùa xuân, vua lần đầu cày ruộng ở núi Đọi, mở đầu một lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo: lễ tịch điền.

Lê hoàn tên thật là gì
Tượng Lê Hoàn ở cố đô Hoa Lư

Lê Hoàn cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp. Năm 1003, vua đi Hoan Châu, vét kinh Đa Cái thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ái châu. Lê Hoàn cũng là vị vua đầu tiên tổ chức đào sông. Công trình này là một di tích lịch sử, nối liền 4 tỉnh Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và là đường giao thông thuỷ nội địa đầu tiên, trở thành tấm gương cho các vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn noi theo.

Ngoại giao
Theo Phan Huy Chú, vua Việt bên trong xưng đế, bên ngoài xưng vương, vẫn chịu phong hiệu của Trung Quốc. Năm 980, vua Tống sai Lư Tập đi sứ Đại Cồ Việt, lúc này Lê Hoàn đã nắm quyền bính, đại diện cho Đinh Toàn đứng ra tiếp sứ, tiến cống châu báu, đồng thời gửi biểu nói rằng triều đình đã tự nguyện tôn Lê Hoàn lên làm vua. Nhưng vua Tống không chịu, đòi Đinh Phế Đế nắm giữ cai trị đất Giao Chỉ, hoặc 2 mẹ con họ Đinh đến chầu Thiên triều thì Lê Hoàn sẽ được nắm quyền cai trị. Lê Hoàn không nghe, hai bên đánh nhau, nhà Tống thua, để giảng hòa Lê Hoàn vẫn sai sứ giả sang Trung Quốc thông hiếu. Vua Tống sai sứ sang phong cho Lê Hoàn lần lượt các chức như Đặc Tiến, Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương kiêm Trị trung.

Năm 987 nhà Tống sai Lý Giác sang Đại Cồ Việt, khi đến chùa Sách Giang, Lê Hoàn sai nhà sư tên Thuận giả làm người chèo đò ra đón. Lý Giác vốn hay văn thơ, ngâm một bài thơ, nhà sư cũng họa theo, Giác lấy làm lạ. Khi ra về, Lý Giác làm thơ có ý khen Lê Hoàn như vua Tống, Lê Hoàn khen ý tốt, cho rất hậu, lại sai người làm thơ tặng sứ giả.

Năm 990, nhà Tống sai người sang sách phong, Lê Hoàn sai người đem thủy quân đi đón. Bây giờ sứ thần sang phong cũng giản dị nên nhà vua coi thường, sự đón tiếp làm ra vẻ sơ sài, kiêu ngạo. Nơi sứ quán, đồ cung tiếp không đầy đủ. Khi sứ sắp đến, Lê Hoàn mới làm gian nhà lợp tranh đề chữ Mao kính dịch, nghĩa là trạm qua đường lợp cỏ tranh. Đến khi Lê Hoàn ra đón ngoài thành thì quân dung lộng lẫy, cờ đàn bay khắp nơi. Ngài cùng với sứ giả giong cương ngựa cùng đi. Đến cửa điện Minh Đức, Lê Hoàn nhận tờ chế đặt trên điện, không lạy, nói khéo rằng do đánh nhau với quân Man nên bị ngã ngựa, đau chân. Hôm sau lại bày trò vui tiếp sứ giả, nhân đấy nói với sứ giả: đường sá xa xôi, núi sông hiểm trở, sau này nếu có thư tín gì về việc nước, thì nên giao ở đầu biên giới, khỏi phiền sứ quân đến đây. Sứ thần về tâu lại, vua Tống nghe theo.

Mùa xuân, tháng 3 năm 1005, Lê Hoàn chết ở điện Trường Xuân, gọi là Đại Hành Hoàng Đế, sau nhân đó dùng làm miếu hiệu mà không đổi, triều đình chôn ở sơn lăng tại châu Trường Yên. Các con là Lê Long Đĩnh, Đông Thành Vương, Trung Quốc Vương, Khai Minh Vương tranh nhau 8 tháng, khiến nước không có chủ.

Đánh giá

Sử gia Lê Văn Hưu viết: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bằt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được. Có người hỏi: Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn.”

Sử gia Ngô Sĩ Liên ghi: “Ngài đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy.”

Ngô Thì Sĩ viết trong Việt sử tiêu án: “Ngài Đại Hành là người anh minh, quả quyết, nhiều mưu trí, dụng binh khéo như thần, cho nên khu sách các anh hào, vang động cả quân Man và người Tàu.”

Sử nhà Tống dẫn lời Tống Cảo, người đi sứ sang Đại Cồ Việt đã từng gặp Lê Hoàn mô tả ngài là "con người mắt lé" nhưng "hung hãn" và "có chí vác cả núi, ngăn cả bể".

Phan Huy Chú ghi trong Lịch triều hiến chương loại chí: Lê Đại Hành là một vị vua mà "Sứ thần Trung Quốc phải tôn sùng, tù trưởng sơn động hết chuyện làm phản. Thành Hoa Lư phồn vinh hơn cả nhà Đinh. Còn lưu ý đến sức dân, quan tâm đến chính sự của nước, chú trọng nghề làm ruộng, nghiêm ngặt việc biên phòng, quy định pháp lệnh. Tuyển lựa quân ngũ... có thể nói là hết sức siêng năng, hết lòng lo lắng".

Trong Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung bàn rằng: "Lê Đại Hành cầm quyền tướng quân mười đạo, giữ chức nhiếp chính, vua bé nước nguy, nhân thời chịu mệnh, giết vua Chiêm Thành để rửa cái nhục sứ thần bị bắt, phá quân Triệu Tống làm nhụt cái mưu tất thắng của chúng. Dùng bọn Hồng Hiến, Cự Lạng, Từ Mục, Tử An để làm tả hữu. Cày ruộng tịch điền ở Long Đọi, mời người xử sĩ ở Tượng Sơn, kén dùng hiền tài, dựng mở trường học, có mưu lược to lớn của bậc đế vương."

Lê Đại Hành tin dùng, lắng nghe sự cố vấn của các thiền sư Phật giáo như Vạn Hạnh, Khuông Việt và Đỗ Pháp Thuận. Những cao tăng này đã hỗ trợ tích cực cho ngài trong các hoạt động chính trị, quân sự và ngoại giao.

Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi vua mới mất mà chưa được đặt thụy hiệu thì gọi là Đại Hành hoàng đế. Vua nối ngôi Lê Long Đĩnh đã không đặt thụy hiệu nên "Đại Hành hoàng đế" trở thành tên phổ biến của Lê Hoàn.

Thờ phụng

Đền chính thờ vua Lê Đại Hành thuộc khu di tích đặc biệt cố đô Hoa Lư tại làng Yên Thành, xã Trường Yên, Ninh Bình. Tại đây còn thờ thái hậu Dương Vân Nga, vua Lê Long Đĩnh, công chúa Lê Thị Phất Ngân và tướng Phạm Cự Lạng. Đền nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300 mét, thuộc thành Đông và có quy mô nhỏ hơn đền vua Đinh.

Đền thờ Lê Hoàn ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, được xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt năm 2018. Tại đây còn lưu giữ nhiều đồ vật quý, đặc biệt có một đĩa bằng đá trắng, đường kính 36cm, trong lòng đĩa ghi chữ: "Giang Nam nhất phiến tuyết; Trác khí vạn niên trân". Khác với đền thờ Lê Hoàn tại cố đô Hoa Lư, đền Trung Lập nhỏ hơn, ít tiểu tiết tinh xảo và không thờ những người liên quan. Lễ hội truyền thống nhân ngày mất của vua diễn ra hàng năm từ mùng 7 đến 9 tháng 3 âm lịch (giỗ chính ngày mùng 8) tại làng Trung Lập ở quy mô nhỏ hơn lễ hội tại Hoa Lư - nơi gắn bó với sự nghiệp của ngài.

Chú thích
[1] Trường Châu (Ninh Bình) là nơi ngài Lê Lộc cùng vợ là Cao Thị Khương từng sinh sống trước khi chuyển đến Bảo Thái (Hà Nam) định cư. Bảo Thái là nơi sinh ra Lê Mịch cha của Lê Hoàn, có thể coi là quê tổ của vua. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi “mộ tổ của Lê Đại Hành” ở Bảo Thái. Lê Mịch và vợ là Đặng Thị Khiết chuyển vào Trung Lập, huyện Thọ Xuân, Ái Châu (Thanh Hóa), tại đây sinh ra Lê Hoàn, sau được viên quan án họ Lê quê Trung Lập nhận làm con nuôi.

©NCCông 2018, Emperor Le Hoan