Tây tiến so sánh từ ấy năm 2024

"Tây Tiến" của nhà thơ Quang Dũng là một trong những tác phẩm trọng tâm trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Và đây cũng là bài thơ xuất hiện nhiều trong các đề kiểm tra, đề thi. Trong quá trình phân tích thi phẩm, chúng ta thường có những so sánh, liên hệ, mở rộng với những tác phẩm khác cùng đề tài. Để làm mới phần so sánh, mở rộng này, các bạn hãy lưu ngay một số câu thơ, câu văn, nhận định này nhé!

  1. Khi phân tích câu thơ mở đầu “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”, ta có thể trích dẫn nhận định: "Câu thơ như một tuyệt bút về thiên nhiên sông Mã. Tôi chưa đọc câu thơ nào viết về sông Mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí kết của con sông chiến trận , quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệp sĩ của tứ thơ" (Nhà thơ Phan Quế)
  2. Khi phân tích “nỗi nhớ chơi vơi”, chúng ta có thể liên hệ đến nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi”, nỗi nhớ “ngẩn ngơ” trong ca dao: "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than" "Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai" Hay nỗi nhớ "dây dưa" trong thơ của Tế Hanh: "Hoa cúc vàng trong nỗi nhớ dây dưa"
  3. Khi phân tích câu thơ “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” ta thấy được tư thế ngạo nghễ hiên ngang của người lính giữa lồng lộng đất trời. Tư thế ấy gợi chúng ta liên tưởng đến hình ảnh anh vệ quốc quân trong thơ Tố Hữu: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bòng dài trên đỉnh núi cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo”
  4. Phân tích sự hiểm trở, dữ dội của thiên nhiên qua hình ảnh “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”, chúng ta có thể liên hệ đến hình ảnh thác nước chảy đứng trong thơ Lí Bạch: “Phi thiên trực há tam thiên xích” (Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
  5. Phân tích sự hoang sơ, bí hiểm của chốn “sơn cùng thuỷ tận” trong câu thơ “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người” ta có thể liên hệ đến câu thơ: “Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt” (“Nhớ rừng” – Thế Lữ)
  6. Nói về sự ra đi thanh thản của những chàng trai Tây Tiến, có thể liên hệ đến câu thơ sau: “Vui vẻ chết như như cày xong thửa ruộng Lòng khỏe nhẹ anh dân công vui sướng Nằm trên liếp cỏ ngủ ngon lành" (Tố Hữu) Hay: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi Thì còn chi Tổ quốc” (“Khúc bảy” - Thanh Thảo)
  7. Để nói về khí thế hào hùng trong bức tranh đầy bi tráng về người lính Tây Tiến, có thể liên hệ đến những câu thơ trong bài “Dáng đứng Việt Nam” – Lê Anh Xuân: “Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và anh chết trong khi đang đứng bắn Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng Dáng đứng Việt Nam”
  8. Khi phân tích câu thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”, gợi cho ta liên tưởng đến những vần của Chế Lan Viên trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”: “Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn toả mùi hương”
  9. “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó” – Nguyễn Đăng Điệp Nhận định này có thể dùng để so sánh sự khác nhau giữa thi phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng.
  10. Để thấy được sự tinh tế, hào hoa của Quang Dũng khi cảm nhận được linh hồn của lau cỏ ta cần có sự liên hệ đến những câu thơ của Chế Lan Viên: “Ngàn lau cười trong nắng Hồn của mùa thu về Hồn mùa thu sắp đi Ngàn lau xao xác trắng”
  11. Khi nói về căn bệnh hiểm nghèo – sốt rét rừng ta có thể liên hệ đến hình ảnh của anh vệ quốc quân trong bài “Cá nước” của Tố Hữu: “Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ” Hay: “Khuôn mặt đã lên màu tật bệnh Đâu còn tươi nữa những ngày hoa!” (“Lên cấm sơn” – Thôi Hữu) “Cái phút người anh như lửa nóng Núi cũng ngồi, cũng đứng khác chi anh Những câu thơ lẫn vào cơn sốt Con chữ cháy đen xiêu vẹo dáng hình” (“Nhật kí sau cơn sốt” – Nguyễn Đức Mậu)
  12. Hình ảnh “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” gợi lên vẻ dữ tợn, oai phong của những người lính Tây Tiến tựa như những “chúa sơn lâm”. Cách so sánh này làm ta liên tưởng đến: “Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” (“Thuật hoài” – Phạm Ngũ Lão)
  13. Khi phân tích nỗi nhớ của người lính Tây Tiến, ta có thể liên hệ, so sánh với nỗi nhớ của người lính trong “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Ba năm rồi gửi lại quê hương Mái lều tranh Tiếng mõ đêm trường Luống cày đất đỏ Ít nhiều người vợ trẻ Mòn chân bên cối gạo canh khuya” Hay nỗi nhớ của người lính trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi: “Những đêm dài hành quân nung nấu Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
  14. “Người Đức họ không cấm thanh niên họ đọc Werther mà họ vẫn cường, người Anh họ không cấm thanh niên họ đọc Romeo et Juliette mà họ vẫn mạnh. Tôi dám chắc chỉ có những nhà nhân đạo mới tự cấm lấy mình thôi. Nếu cấm hết đi như vậy thì còn biết chi là cái hay cái đẹp ở đời” (Nhà thơ Lưu Trọng Lư) Sử dụng nhận định này của Lưu Trọng Lư khi nói về quá trình tiếp nhận “Tây Tiến”
  15. Nói về vẻ đẹp tâm hồn cũng như sự hi sinh của người lính, chúng ta có thể thấy điểm tương đồng trong dòng chảy thi ca nhân loại: + “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” – xưa nay đi chiến trận, mấy ai trở về. + Nhà văn Bảo Ninh trong tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” từng viết “Chân trời chết chóc mở ra mênh mông, vô tận, những nấm mồ bộ đội mọc lên nhấp nhô tựa sóng cồn”. "Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra đất nước” (Trích chương V – Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) “Anh đứng - đất là đất Anh nằm - đất là lăng Dải Ngân Hà vằng vặc Muôn đời soi quanh anh” (Sergei Orlov) “Làm sao đây bù đắp nỗi đau này, Khi chính tôi cũng là người lính, Ngày mai trên con đường chiến trận Có thể rồi cũng ngã xuống như anh”. (Konstantin Simonov)

Lời thề hẹn ước của những người lính Tây Tiến đã bắt cầu liên tưởng đưa chúng ta nhớ về hình ảnh li khách trong “Tống biệt hành” của Thanh Tâm: