Vô tri vô giác có nghĩa là gì

Ý nghĩa của từ Vô tri vô giác là gì:

Vô tri vô giác nghĩa là gì? Ở đây bạn tìm thấy 2 ý nghĩa của từ Vô tri vô giác. Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa Vô tri vô giác mình


5

  1


Inanimated ignorant.


0

  2


như vô tri [nhưng nghĩa mạnh hơn].



Vô là không. Tri là hiểu biết. Vô tri là không hiểu biết. Người vô tri không có khả năng suy nghĩ, xem xét, giải quyết đúng vấn đề. Người vô tri không biết bản chất vô thường, khổ, không, vô ngã của cuộc sống. Người vô tri là người không có chánh tư duy.

Phật dạy tư duy và nhận thức của người vô tri luôn hướng về ái dục; vì vô tri đôi khi chính mình tự che lấp sự thật.

Theo giáo lý đạo Phật, con người được tạo thành bởi ngũ uẩn [Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức]. Sắc là phần thân, phần sinh lý [trong phần tiếng anh của trang điện tử www.legacy.suttacentral.net/lzh/sa3 quý thầy dịch sắc là bodily form]. Thọ là cảm giác. Tưởng là tri giác. Hành là những hiện tượng tâm lý phát khởi bao gồm vui, buồn, giận, ghen, thương, ghét. Thức là nơi cất giữ những cảm thọ và tri giác. Bởi Thức có chức năng cất giữ nên thức còn gọi là tàng thức.

Trong Kinh Pháp Cú[1], Phật dạy tư duy và nhận thức của người vô tri luôn hướng về ái dục; vì vô tri đôi khi chính mình tự che lấp sự thật. Vô tri đi liền với tà kiến. Chỉ có tuệ giác chân thực, tức là phải có chánh tư duy mới có khả năng phân biệt và thấy rõ được bản chất vô thường, khổ, không, vô ngã, từ đó giúp ta có khả năng ly dục, đoạn trừ khổ não.

Tư tưởng ỷ dâm dục

Tự phú vô sở kiến

Duy tuệ phân biệt kiến

Năng đoạn ý căn nguyên

思  想  猗  婬  欲

自  覆  無  所  見

唯  慧  分  別  見

能  斷  意  根  原

Trong Kinh Tạp A Hàm[2]  Phật dạy cách thức đoạn trừ khổ não để có được cuộc sống an vui như sau:

“Đối với sắc không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục thì không thể đoạn trừ khổ não,

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, thì không thể đoạn trừ khổ não.

“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành và thức, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.”

[於色不知、不明、不斷、不離欲,則不能斷苦。如是受、想、行、識,不知、不明、不斷、不離欲,則不能斷苦,

Ư sắc bất tri, bất minh, bất minh, bất ly dục, tắc bất năng đoạn khổ. Như thị, thọ tưởng, hành thức bất tri, bất minh, bất minh, bất ly dục, tắc bất năng đoạn khổ.

於色若知、若明、若斷、若離欲,則能斷苦;如是受、想、行、識,若知、若明、若斷、若離欲,則能堪任斷苦。

Ư sắc nhược tri, nhược minh, nhược ly dục, tắc năng đoạn khổ. Như thị, thọ tưởng, hành thức nhược tri, nhược minh, nhược ly dục, tắc năng đoạn khổ].

Là con cháu của Phật, vâng theo lời của Phật, mỗi người cần phải thực hành chánh kiến, chánh tư duy để từ đó có được có tri giác về vô thường, khổ, không, vô ngã của vạn vật mà không còn tham đắm vào sắc dục. Tri giác giúp người tu có khả năng đoạn trừ khổ đau.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Dưới đây là bài Kinh Vô tri trong Tạp A Hàm Kinh

VÔ TRI [3]

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở tại vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

“Đối với sắc không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục thì không thể đoạn trừ khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức mà không biết, không rõ, không đoạn tận, không ly dục, thì không thể đoạn trừ khổ não.

“Này các Tỳ-kheo, đối với sắc, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.

“Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành và thức, nếu biết, nếu rõ, nếu đoạn tận, nếu ly dục, thì có thể đoạn trừ khổ não.”

Bấy giờ, các Tỳ-kheo sau khi nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

[1] Phẩm thú 32, Phẩm Ái Dục, Kinh Pháp Cú[2] Tạng Càn Long, tập 51, trang 397[3] //legacy.suttacentral.net/lzh/sa3

Hoàng Phước Đại – Đồng An

Dưới đây là những mẫu câu có chứa từ "vô tri vô giác", trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt. Chúng ta có thể tham khảo những mẫu câu này để đặt câu trong tình huống cần đặt câu với từ vô tri vô giác, hoặc tham khảo ngữ cảnh sử dụng từ vô tri vô giác trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt

1. Ông rảo mắt quanh địa hình vô tri vô giác.

2. Người vào một trạng thái hoàn toàn vô tri vô giác.

3. Nhưng vào cuối ngày, họ chỉ là vật vô tri vô giác thôi.

4. Tuy nhiên, dù bỏ ra công sức đến đâu hoặc vật liệu họ dùng mắc tiền đến mấy, một hình tượng vô tri vô giác vẫn là một hình tượng vô tri vô giác, không hơn không kém.

5. Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống, chứ không phải một lực vô tri vô giác!

6. Làm sao người ta lại có thể thần tượng hóa những vật vô tri vô giác?

7. Thật sự rất vui khi làm những vật vô tri vô giác trở nên sống động

8. Dĩ nhiên chúng là thủy tinh, chứ để tự nhiên thì chết đờ vô tri vô giác.

9. Đúng thế, người chết là vô tri vô giác, không thể nghe, thấy, nói hoặc nghĩ ngợi.

10. Những tạo vật vô tri vô giác còn ngợi khen Đức Giê-hô-va, huống chi là chúng ta!

11. Vì lẽ ấy chúng ta không bao giờ có thể so sánh Ngài với các hình tượng vô tri, vô giác!

12. San cũng có thể được ghép với tên của động vật hoặc thậm chí với đối tượng vô tri vô giác.

13. Đó là lực sống tối quan trọng mà Đức Chúa Trời cho vào thân thể vô tri vô giác của A-đam.

14. Giống như những vẻ đẹp khác của sự sáng tạo, các từng trời vô tri vô giác ca ngợi Đấng Tạo Hóa.

15. Họ sẽ không tìm ân phước nơi bất cứ thần giả nào, hay thề cùng bất cứ thần vô tri vô giác nào.

16. Một lần nữa, Nít-róc vô tri vô giác đã tỏ ra bất lực không thể cứu giúp.—Ê-sai 37:35-38.

17. Ngày nay có nhiều niềm tin cũng vô nghĩa như niềm tin các hình tượng vô tri vô giác thật sự là thần.

18. 3 Cũng có những vật vô tri vô giác mà nếu tôn kính có thể đưa đến việc phạm điều răn Đức Chúa Trời.

19. Vậy nó đòi hỏi phải tìm cách tận dụng những vật vô tri vô giác và điều chỉnh chúng theo ý muốn của tôi.

20. [Ê-sai 2:8, 9] Họ xoay mặt khỏi Đức Chúa Trời hằng sống và quỳ lạy các thần tượng vô tri vô giác.

21. Đây là một phép lạ liên quan đến bộ xương vô tri, vô giác của một trong những nhà tiên tri của Đức Chúa Trời.

22. Ông không muốn danh ấy bị quân thù sỉ nhục khi chúng qui công trạng chiến thắng cho các hình tượng vô tri vô giác.

23. Kinh Thánh thường dùng một phép tu từ gọi là nhân cách hóa—nói về một vật vô tri vô giác như thể có sự sống.

24. Đấng có thể thực hiện được điều ấy hay khích lệ cho người khác làm việc ấy không chỉ là một hình tượng vô tri vô giác.

25. Để đáp lại, Ort-Meyer tiết lộ "Đối tượng 48", một bản sao hoàn hảo của 47 vừa vô tri vô giác nhưng lại cực kỳ trung thành.

26. Nhưng cúi mình xuống lạy các vật vô tri vô giác là vô ích, và làm cho các kẻ thờ hình tượng bị “hạ” hay là thoái hóa.

27. Bởi vì các hình tượng vô tri vô giác làm bằng gỗ không thể nào tượng trưng các cá tính tuyệt vời của Đức Chúa Trời hằng sống.

28. Vậy mà dân Y-sơ-ra-ên đã từ bỏ Đức Giê-hô-va, tôn vinh những thần tượng vô tri vô giác thay vì Đức Chúa Trời hằng sống.

29. Chắc chắn không một người nào, không một vật nào có tri giác hay vô tri vô giác có thể xứng đáng được “kính trọng, tôn vinh hay tôn sùng”.

30. Hơn nữa, Gióp không tham gia vào sự thờ hình tượng bằng cách sùng bái các vật vô tri vô giác, chẳng hạn như mặt trăng [Gióp 31:26-28].

31. Nhưng tôi nghĩ có thể tiếng nói quyền lực và uyên bác nhất trong số đó lại chính là tiếng nói của vật vô tri vô giác này, hình trụ Cyrus.

32. Nước Giu-đa đã quay lưng lại với Đức Giê-hô-va và nương cậy nơi sự liên minh với các nước, thậm chí nương cậy cả nơi hình tượng vô tri vô giác.

33. Đối với một dân tộc biết Đức Giê-hô-va, việc đặt tin cậy nơi hình tượng vô tri vô giác, bất lực do bàn tay con người tạo ra, quả là dại dột.

34. Cậu biết rằng hình tượng là vật vô tri vô giác. Cậu không sợ nó, nhưng cậu biết rằng những người trong làng sẽ nổi giận và có thể tìm cách để giết cậu.

35. [Ê-sai 46:5] Làm sao một số người đồng hương của Ê-sai có thể bào chữa được khi họ quay sang thờ những tượng câm, bất lực và vô tri vô giác!

36. Nó đang tiến hành dự án kì quặc về triết học nhằm phân chia những thứ vô tri vô giác trên thế giới thành những thứ có thể gây ra hoặc ngăn ngừa ung thư.

37. Nếu tôi khuyên chị đến nhà thờ, ở đấy chị chỉ thấy những bức tượng vô tri vô giác, không có ai để trò chuyện và mọi sự đều ở trong tình trạng tối tăm.

38. Nếu những tạo vật vô tri vô giác còn có thể ngợi khen Đức Giê-hô-va, huống chi chúng ta—những tạo vật biết suy nghĩ, nói năng và thờ phượng—lại không ca ngợi Ngài?—Khải-huyền 4:11.

39. Tên tàu buôn thường chứa từ maru ở cuối [nghĩa là vòng tròn], trong khi tàu chiến không bao giờ được đặt tên theo người, mà là các vật vô tri vô giác như núi, hải đảo, hiện tượng thời tiết hoặc động vật.

40. Sau khi thừa nhận rằng “các hệ thống sinh hóa không phải là vật vô tri vô giác”, ông Michael Behe, phó giáo sư sinh hóa học tại Đại Học Đường Lehigh, hỏi: “Có thể nào các hệ thống sinh hóa được thiết kế một cách khéo léo không?”

41. để ít nhất 1 lần thấy mình trong những điều kiện hoang sơ nhất của con người một mình đối mặt với những hòn đá vô tri vô giác mà không có bất kì sự trợ giúp nào ngoài chính đôi tay và khối óc của bản thân. "

42. Khi lần đầu bồng ẵm những đứa bé trên tay, chúng ta nghĩ rằng chúng là những tinh thể trong suốt, vô tri vô giác về mặt chức năng, nhưng thực tế, chính chúng ta đã góp phần định hình nên các bé từ chính thế giới mình đang sống.

43. Sau khi thừa nhận rằng “các hệ thống sinh hóa không phải là vật vô tri vô giác”, ông Michael Behe, giáo sư phụ tá sinh hóa học tại Đại Học Lehigh, tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ, hỏi: “Có thể nào các hệ thống sinh hóa được thiết kế một cách khéo léo không?”

44. Sự ứng nghiệm của lời tiên tri về việc giải cứu khỏi ách phu tù và về việc tái lập sự thờ phượng thanh sạch sẽ chứng minh rõ ràng chỉ mình Giê-hô-va là Đức Chúa Trời thật và khiến mọi kẻ thờ hình tượng vô tri vô giác của các nước phải xấu hổ.

45. Tiền tuyến đầy những cỗ máy vô tri vô giác nhìn những người chúng ta coi là kẻ thù từ trên không phóng tên lửa xuống những mục tiêu không nhìn thấy, trong khi con người chỉ huy dàn nhạc cùa ngoại giao và truyền thông về sự kiện một chiếc máy bay không người lái tấn công một ngôi làng thay vì một người trong phe cực đoan

Video liên quan

Chủ Đề