Tại sao Mỹ không dụng bom nguyên tử

“Thật điên rồ nếu Mỹ sử dụng vũ khí nguyên tử. Điều đó không chỉ đem lại hậu quả thảm khốc cho vị thế của nước Mỹ mà còn là khởi đầu rất nguy hiểm cho khả năng leo thang chiến tranh trên toàn thế giới”.

Bối cảnh chung

Chiến tranh Triều Tiên chứng kiến ​​3  mốc quan trọng trong năm 1950. Đầu tiên là cuộc đưa quân ồ ạt của Triều Tiên qua vĩ tuyến 38 vào tháng 6, làm leo thang một cuộc xung đột đã kéo dài vài năm. Cuộc đổ bộ của Mỹ tại Incheon vào tháng 9 và 15 quốc gia theo họ tham gia cuộc chiến đã buộc quân Triều Tiên ở thế phòng thủ. Cuối tháng 10, sự can thiệp của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã kết thúc cuộc tấn công của Đồng minh và buộc các lực lượng của Liên Hợp Quốc phải lùi ra ngoài vĩ tuyến 38.

Các lực lượng của Triều Tiên đã đánh bại các lực lượng của Hàn Quốc, Mỹ và Liên Hợp Quốc, buộc họ phải rút lui về một khu vực nhỏ ở góc Đông Nam của bán đảo. Bất chấp sự hỗ trợ đường không và đường biển, một viễn cảnh hiển hiện là các lực lượng do Mỹ hậu thuẫn sẽ bị đẩy ra biển.

Mỹ từng định ném bom nguyên tử Triều Tiên. Nguồn ảnh minh họa: wearethemighty.com

Khi lực lượng Mỹ rút lui khỏi cuộc tấn công dữ dội của Trung Quốc qua sông Áp Lục, Tướng Douglas MacArthur đã kêu gọi các cuộc tấn công đường không chiến lược chống lại Trung Quốc. Nhiều người tin rằng điều này nhất thiết phải bao gồm bom nguyên tử, "lợi thế bất đối xứng" của Mỹ lúc bấy giờ. Bất chấp những tiến bộ vượt bậc mà Liên Xô đã đạt được trong chương trình nguyên tử của mình, Mỹ vẫn có được lợi thế to lớn về tổng số vũ khí nguyên tử và phương tiện sử dụng.

Cục diện chiến tranh

Đến năm 1950, Mỹ có gần 300 quả bom Mark 4 và các máy bay ném bom có ​​khả năng sử dụng những quả bom này. Hệ thống căn cứ trên toàn thế giới cho phép các máy bay ném bom xuống hầu hết các thành phố lớn trên hành tinh. Liên Xô chỉ mới tiến hành vụ nổ nguyên tử thử nghiệm đầu tiên vào tháng 8/1949. Cả Liên Xô và Trung Quốc đều không có căn cứ hoặc máy bay ném bom cần thiết để đe dọa trực tiếp Mỹ. Nếu Mỹ quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân chống lại Triều Tiên, họ có thể làm mà không bị tấn công trả đũa.

Nghiên cứu gần đây đã tiết lộ những lý do khác khiến Mỹ chống lại việc sử dụng bom nguyên tử. Trong khi một số người tin rằng Mỹ đã đơn phương kiềm chế trong cuộc chiến, trên thực tế, cả hai bên đều thận trọng tích lũy sức mạnh của mình. Giới chức quân sự Mỹ lo ngại chiến tranh leo thang sẽ khiến tình hình trên bán đảo Triều Tiên không thể cứu vãn được. Trung Quốc duy trì một lực lượng mặt đất và không quân dự trữ đáng kể, họ có thể ném vào cuộc chiến nếu Mỹ quyết định đẩy mạnh cuộc chiến.

Có lẽ quan trọng hơn, Liên Xô có thể gây ảnh hưởng lớn hơn rất nhiều đến cuộc xung đột, thông qua việc đẩy mạnh chuyển giao thiết bị cho Trung Quốc và Triều Tiên, hoặc thông qua việc triển khai trực tiếp các lực lượng trên bộ, không quân và hải quân của Liên Xô. Nếu Mỹ quyết định dốc toàn lực, Hồng quân có đủ sức mạnh để xóa sổ các lực lượng Mỹ tại lục địa Đông Á, cắt đứt đường rút lui của Mỹ khỏi Hàn Quốc. Sự leo thang hạt nhân trên Bán đảo Triều Tiên có thể sẽ gây ra khủng khiếp cho tất cả các bên liên quan.

Mỹ sẽ gây ra nỗi đau khủng khiếp cho một lợi thế chiến lược không chắc chắn. Những ảnh hưởng và tác động tàn khốc sau vụ thả vũ khí hạt nhân của 'Little Boy' và 'Fat Man' trong Thế chiến II vẫn còn ám ảnh châu Á vào năm 1950. Trong khi hầu hết các nhà sử học đồng ý rằng những quả bom đã kết thúc chiến tranh ở Thái Bình Dương một cách nhanh chóng, nhưng cái giá phải trả cho nhân loại là rất lớn. Hơn 200.000 người chết vì cả 2 quả bom, đa số là dân thường, không bao gồm những tàn phá và hư hỏng vĩnh viễn do tác động của bom gây ra.

Điều khiến mọi người thất vọng là Trung Quốc tấn công dữ dội các lực lượng Mỹ và Liên Hợp Quốc bắt đầu từ ngày 26/11/1950. Quân Trung Quốc đã nhanh chóng dập tắt hy vọng tất cả quân đội sẽ về nhà vào dịp Giáng sinh. Ngày 30/11/1950, Tổng thống Mỹ Truman đã đưa ra lời đe dọa được che đậy kín đáo về việc sử dụng bom nguyên tử chống lại Triều Tiên. Nhiều cố vấn đáng tin cậy nhất của Tổng thống Mỹ cho là rủi ro và liều lĩnh. Ngoài MacArthur, không ai tin rằng Chiến dịch Chromite sẽ thành công.

Tại sao Mỹ không ném bom hạt nhân Triều Tiên?

Mỹ không coi cuộc chiến ở Triều Tiên là quan trọng đối với họ. Thay vào đó, Washington coi cuộc chiến trên bán đảo này là một điểm nhấn trong cuộc đấu tranh toàn cầu với Liên Xô và các nước chư hầu của Moscow. Toàn bộ cuộc chiến và tất cả các hoạt động ngoại giao hạt nhân liên quan của nó đã được nhìn qua lăng kính đó. Câu hỏi đặt ra là điều gì sẽ xảy ra với Hàn Quốc? Đúng hơn là, liệu Liên Xô có can thiệp vào Triều Tiên? Liệu Trung Quốc có lợi dụng sự mất tập trung để xử lý vấn đề Đài Loan? Thậm chí, liệu điều này có làm suy yếu mối quan hệ chiến lược đặc biệt của Mỹ với đồng minh quan trọng của họ là Anh?

Theo cách nhìn nhận này, đó là một tình tiết có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh thế giới. Vũ khí nguyên tử - vũ khí đặc biệt của Mỹ được các nhà lãnh đạo chính trị cấp cao coi không phải là vũ khí của chiến tranh, mà là công cụ của ngoại giao. Theo đó, và trái ngược với logic rằng việc sử dụng những vũ khí này sẽ thể hiện sức mạnh và quyết tâm của Mỹ, niềm tin chiếm ưu thế là chỉ cần di chuyển chúng có thể gửi những tín hiệu thích hợp.

Phản ứng ngày càng tăng đối với việc sử dụng thực tế trong giới lãnh đạo dân sự đã được củng cố bởi sự đồng thuận đang phát triển trong quân đội rằng giá trị răn đe chung của vũ khí nguyên tử không được sử dụng vượt xa những lợi ích có thể mang lại. Đó là lý do tại sao Mỹ không sử dụng vũ khí hạt nhân vào năm 1950 và bản thân cuộc chiến đã kết thúc trong một loại bế tắc, hai miền Triều Tiên không được thống nhất như mong đợi. Để đảm bảo an toàn cho biên giới và Hàn Quốc, quân đội Mỹ vẫn ở lại dọc khu phi quân sự cho tới nay.

Từ lâu, cấm vũ khí hạt nhân đã là mục tiêu của những người phản đối chiến tranh, nhưng ngày nay tiếng nói của họ đông đảo hơn. Khoảng 49% người Mỹ nghĩ rằng Mỹ nên loại bỏ vũ khí hạt nhân của mình trong khi 32% tin điều ngược lại. Triều Tiên đã nghiên cứu vũ khí hạt nhân kể từ khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên, vốn cướp đi sinh mạng của 2,5 triệu người, 37.000 trong số đó là người Mỹ. Mặc dù vũ khí nguyên tử đã không được sử dụng kể từ Thế chiến II, mối đe dọa về sức tàn phá tuyệt đối của nó chưa bao giờ trở nên hiện thực hơn hiện nay./.

Kế hoạch “Dropshot”

“Dropshot” là một trong những kế hoạch được soạn thảo chi tiết nhất dưới thời Tổng thống Mỹ Harry Truman, được Hội đồngTham mưu trưởngLiên quânHoa Kỳ phê chuẩn vào tháng 12-1949.

Kế hoạch này đề cập đến việc tiến hành chiến tranh tổng lực chống lại Liên Xô và các đồng minh bằng những đòn tấn công vũ khí hạt nhân ồ ạt vào các cơ sở quân sự và dân sự. Mục đích của “Dropshot” là khiến Liên Xô đầu hàng vô điều kiện, tước bỏ chủ quyền và chiếm đóng lãnh thổ Liên Xô, cũng như tiến hành các hoạt động kiểm soát nhằm ngăn chặn sự hồi sinh bất kỳ mối đe dọa tiềm tàng nào đối với Mỹ. Những mục đích này tương tự như những quy định từng được áp dụng với Đức và Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Vũ khí của Liên Xô. Ảnh tư liệu: Bộ Quốc phòng Nga

“Dropshot” có tính đến việc tấn công hủy diệt hoàn toàn lực lượng vũ trang Liên Xô, phá hủy tiềm năng công nghiệp và cơ sở hạ tầng kinh tế của nước này. Những mục tiêu tấn công hạt nhân được xác định gồm có 104 thành phố của Liên Xô, trong đó có Moskva, Leningrad, Sverdlovsk, Chelyabinsk, Tashkent, Alma-Ata, Baku, Sevastopol, Vladivostok… Để thực hiện kế hoạch này, Hoa Kỳ dự kiến sẽ sử dụng tổng cộng 292 quả bom nguyên tử. Thời gian dự kiến bắt đầu thực hiện kế hoạch được ấn định là ngày 1-1-1957.

Học thuyết tấn công ạt

Năm 1953, Thống tướng Lục quân Hoa Kỳ Dwight Eisenhower lên nắm quyền, thay thế Tổng thống Harry Truman. Trong bài phát biểu ngày 12-1-1954, Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đã trình bày những nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Liên Xô và các nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa. Chính sách này có tên gọi là “Học thuyết tấn công ồ ạt ”. Nó cho rằng, “sự lâm lăng của chủ nghĩa cộng sản” đối với Mỹ và bất kỳ đồng minh nào sẽ gặp phải sự đáp trả hủy diệt của nước này bằng việc sử dụng tất cả các loại vũ khí nhằm vào lãnh thổ Liên Xô. Một phần của học thuyết này được biết đến đó là kế hoạch “Dropshot”.

Cũng trong năm đó, Tổng tư lệnhLực lượng vũ trang hợp nhất NATO tại châu Âu, Tướng Mỹ Alfred Gruenther tuyên bố: “Chiến lược của chúng ta yêu cầu sử dụng vũ khí hạt nhân mà không phụ thuộc vào việc đối phương có sử dụng nó hay không”. Trong khi đó, thời hạn ấn định ngày 1-1-1957 cho thấy, Mỹ hoàn toàn không sẵn sàng tiến hành tấn công hạt nhân ngay lập tức vào lãnh thổ Liên Xô. Vậy thực hư là như thế nào?

Khả năng chống trả

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Liên Xô cũng đã phát triển các phương tiện chống trả các cuộc tấn công từ phía Mỹ. Mặc dù vũ khí hạt nhân của Liên Xô trước những năm 1960 chưa thể vươn tới bên trong lãnh thổ Hoa Kỳ, nhưng các đồng minh Tây Âu của Mỹ lại ở gần hơn. Và sự hăng hái gây chiến của Washington cũng dần bị nguội lạnh bởi chính sự e dè của những nước này. Trước hết, lục quân Liên Xô được cho là sẽ nhanh chóng chiếm đóng lục địa châu Âu đến bờ Đại Tây Dương. Trong khi đó, Liên Xô có thể dùng bom và tên lửa để tấn công hủy diệt vào lãnh thổ nước Anh.

Mặc dù việc chế tạo tên lửa tầm trung và tầm xa tại Liên Xô, nhất là với độ chính xác cần thiết, khi đó vẫn còn rất khó để đạt được, nhưng tính bí mật của Liên Xô đã không để cho tình báo đối phương biết được những công trình mà nước này đang tiến hành. Điều đó cho phép nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev dễ dàng “qua mặt”, khi ông đưa ra những tuyên bố khiến các chính trị gia phương Tây lo sợ. Vì vậy, trong chuyến thăm của Khrushchev đến London vào tháng 4-1956 [đi bằng máy bay phản lực chở khách đầu tiên Tu-104 mới được Liên Xô chế tạo], khi trả lời câu hỏi của phu nhân Thủ tướng Anh Anthony Eden về tầm xa của tên lửa Liên Xô, ông cười lớn rồi trả lời: “Tên lửa của chúng tôi không những có thể vươn đến những hòn đảo của Anh, mà còn có thể bay xa hơn”.

Năm 1954, Liên Xô chế tạo thành công máy bay ném bom chiến lược sử dụng đông cơ tuabin cánh quạt Tu-95 [đến nay loại máy bay này vẫn trong biên chế của Lực lượng hàng không vũ trụ Nga], và một năm sau được trưng bày tại Triển lãm hàng không ở Tushino. Vậy nên, những vùng lãnh thổ tách rời của chính nước Mỹ đã trở nên “dễ bị tổn thương” khi Liên Xô tấn công đáp trả. Đặc biệt, tổn thất của Mỹ và các nước đồng minh khi tấn công vào Liên Xô sẽ vượt quá mức chấp nhận về mặt quân sự.

Ngay đầu những năm 1950, khi việc thực hiện kế hoạch “Dropshot” mới được mô hình hóa ở dạng trò chơi chỉ huy-tham mưu, thì những kết quả cho ra đã làm thất vọng đối với giới quân sự Mỹ. Theo tính toán, nếu lực lượng phòng không Liên Xô đáp trả, thì hơn một nửa máy bay chiến lược của Hoa Kỳ đang tập kích sẽ bị tiêu diệt. Năm 1955, cuộc tập trận của Lực lượng vũ trang hợp nhất NATO mang tên “Carte blanche” đã cho thấy rằng, những cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô vào Tây Âu có thể ngay lập tức cướp đi sinh mạng của ít nhất 1,7 triệu người châu Âu.

Lựa chọn học thuyết kiềm chế

Nếu sử dụng linh hoạt và khôn khéo, thì kế hoạch “Dropshot” vẫn có một điều kiện thực hiện cuối cùng. Theo đó, nó chỉ được áp dụng khi đáp trả những hành động xâm lược của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Việc sử dụng vũ khí hạt nhân ồ ạt chỉ được phép trong trường hợp lục quân Liên Xô chuyển sang tấn công Tây Âu. Bởi lẽ, nếu tuyệt nhiên không hề thấy điều gì như vậy, thì không thể triển khai kế hoạch “Dropshot”.

Các kế hoạch quân sự của Mỹ đối với Liên Xô được soạn thảo nhằm làm quan trọng hóa vấn đề đảm bảo an ninh. Trong khuôn khổ học thuyết “Chiến tranh lạnh” với Liên Xô, học thuyết kiềm chế đã chiếm ưu thế ngay từ năm 1947. Nguồn gốc của học thuyết này là xuất phát từ “bức điện dài” của nhà phân tích thuộc Đại sứ quán Mỹ tại Moskva, George Kennan. Năm 1946, trả lời chất vấn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về chính sách thù địch của lãnh đạo Liên Xô sau chiến tranh, Kennan đã đưa ra hàng loạt lý do.

Theo nhà phân tích này, khác với Đệ Tam Đế chế Đức, Liên Xô không có mục đích thống trị toàn cầu nào và cũng không có chiến lược lâu dài. Chính sách của nước này được thực hiện bởi sự mất lòng tin vốn có đối với người nước ngoài, cũng như lo ngại họ sẽ phá hoại chế độ xã hội Xô viết. Trong khi đó, giới lãnh đạo Liên Xô không chấp nhận những luận điệu và chỉ biết đến ngôn ngữ của sức mạnh. Như vậy, để xử sự với Liên Xô, Hoa Kỳ phải giữ giọng điệu cứng rắn và cho thấy luôn sẵn sàng sử dụng vũ lực ở những nơi mà nước này cho là Liên Xô đe dọa đến lợi ích của mình và đồng minh. Theo Mỹ, chỉ vậy thôi là đủ để vô hiệu hóa Liên bang Xô viết.

Những nội dung trong học thuyết kiềm chế là dựa vào chiến lược “Chiến tranh lạnh” của Mỹ trong quan hệ với Liên Xô. Chúng cho thấy tính hiệu quả hơn bất cứ kế hoạch quân sự nào.

QUỐC KHÁNH [theo russian7.ru]

Video liên quan

Chủ Đề